• Bỏ qua primary navigation
  • Skip to main content
  • Bỏ qua primary sidebar
  • Bỏ qua footer

ngonngu.net

Ngôn ngữ học và Tiếng Việt

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ
Bạn đang ở:Trang chủ / Tiếng Việt / Lịch sử / Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 4)

Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 4)

Trung tâm KHXH&NV Quốc gia 06/04/2007

ngonngu.net
06/04/2007Chuyên mục:
  • Lịch sử

4. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay[*]

Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, trước nhân dân Việt Nam và toàn thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố bản Tuyên ngôn độc lập. Đó là một văn kiện lịch sử đối với lịch sử của dân tộc Việt Nam, đối với cả lịch sử của tiếng Việt. Những lời văn sáng sủa, hùng tráng của bản đại cáo ấy chính thức tuyên bố quyền độc lập, tự do thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, đồng thời chính thức xác định vị trí của tiếng Việt đối với nước Việt Nam đã tự mình làm chủ vận mệnh của mình.

Từ đó, tiếng Việt đảm nhiệm một vai trò mới.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngay từ khi thành lập, đã quyết định dùng tiếng Việt ở mọi cấp học, bậc học, ở mọi ngành hoạt động. Trong vai trò này, tiếng Việt tỏ ra dồi dào khả năng. Một trong những ý nghĩa của các thành tựu văn hoá, khoa học, giáo dục, hơn ba mươi lăm năm qua của nước Việt Nam, là minh chứng rõ ràng cho những khả năng đó của tiếng Việt.

Trong nghệ thuật, giá trị của tiếng Việt được tiếp tục phát huy. Một đặc điểm của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hiện nay là chất liệu ngôn ngữ lấy từ cuộc sống của nhân dân. Đó là một chất liệu rất phong phú vốn được xây dựng nên từ các nguồn văn học truyền miệng và văn học viết cổ điển; qua sự nảy nở những tư tưởng và tình cảm cách mạng của nhân dân trong cuộc sống chiến đấu và lao động, chất liệu đó lại càng phong phú hơn.

Cũng từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, vai trò ngôn ngữ chung của tiếng Việt đối với các thành phần dân tộc anh em lại càng được đề cao. Mỗi thành phần dân tộc có ngôn ngữ riêng với vai trò quan trọng của nó ở mặt sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân thuộc thành phần dân tộc đó. Chính sách của Đảng và Chính phủ là tôn trọng quyền của mỗi thành phần dân tộc trong việc sử dụng ngôn ngữ riêng của mình, vào tạo điều kiện thuận lợi cho ngôn ngữ của tất cả các thành phần đều phát triển. Song, tiếng Việt là ngôn ngữ chung, dùng trong địa hạt giao lưu giữa các thành phần dân tộc, và đặc biệt, trong sự xây dựng và phát triển nền văn hoá và khoa học-kĩ thuật chung của khối cộng đồng dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự có mặt ngày một nhiều của những tác gia thuộc các thành phần dân tộc khác nhau trên văn đàn nghệ thuật và khoa học của tiếng Việt đang biểu hiện một cách sâu sắc cho vai trò ngôn ngữ chung của tiếng Việt, và đồng thời cho khối đoàn kết vững chắc của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, trong nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tiếng Việt có vị trí đầy vinh dự và vai trò ngày càng quan trọng. Đó là công cụ đấu tranh của hơn năm mươi triệu người Việt Nam đang tiến hành đồng thời cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng và văn hoá, cách mạng khoa học-kĩ thuật, đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.

Vị trí và vai trò ấy đặt ra yêu cầu chuẩn hoá nó về mặt chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, và ngữ âm. Chuẩn hoá tiếng Việt là xác định tính chất đúng đắn và thống nhất của các quy tắc trong ý thức "giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt", tức là giữ gìn cái bản sắc đẹp đẽ, cái bản lĩnh độc đáo của tiếng Việt, đồng thời xác nhận những hiện tượng mới nảy sinh trong quá trình phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt, nhằm mục đích nâng cao hiệu lực của nó đối với "tư duy chính trị, tư duy kinh tế, tư duy nghệ thuật, tư duy khoa học" của người Việt Nam trong giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng, như đồng chí Phạm Văn Đồng – Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng – đã phát biểu(1).


Theo Trung tâm KHXH&NV Quốc gia. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, H., 2002, trang 23–25.

[*] Tức là đến thời điểm viết phần này – từ năm 1983 trở về trước.

(1) Năm 1966, thay mặt Đảng và Chỉnh phủ, đồng chí Phạm Văn Đồng đã phát biểu về nhiệm vụ "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt". Gần đây, trong hội nghị "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" (từ 26–30 tháng 10 năm 1979), đồng chí đã phát biểu lần thứ hai về nhiệm vụ đó.

Đọc thêm:

  • Một số vấn đề về chuẩn mực hoá ngôn ngữ
  • Việc hiến định vị thế “ngôn ngữ quốc gia” của tiếng Việt ở Việt Nam: Một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu

Trở lại: 3. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng "chữ quốc ngữ"

Chia sẻ:

  • Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới) Facebook
  • Nhấp để chia sẻ trên X (Mở trong cửa sổ mới) X
  • Nhấp để chia sẻ trên WhatsApp (Mở trong cửa sổ mới) WhatsApp
  • Bấm để chia sẻ lên LinkedIn (Mở trong cửa sổ mới) LinkedIn

Điều hướng bài viết

Bài trước Khái quát về lịch sử tiếng Việt (phần 3)
Bài tiếp theo Giai đoạn Mon-Khmer

Sidebar chính

Mục lục

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ

Footer

Đăng kí theo dõi

Nhập địa chỉ email của bạn để nhận thông báo khi có bài mới.

Liên kết

  • Nhóm Facebook
  • Dự án S – Công cụ tiếng Việt
  • Paratime Studio

Tìm kiếm

Liên hệ và Hỗ trợ

  • Giới thiệu
  • Liên hệ

© 2025 ngonngu.net