3. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng "chữ quốc ngữ"
Từ đầu thế kỉ 20 về sau, tiếng Việt dần dần được dùng trong mọi thể loại văn học, mọi địa hạt văn hoá, khoa học, kĩ thuật. Nó phát triển thành ngôn ngữ văn học toàn diện(1). Đây là giai đoạn hiện đại của tiếng Việt.
Ở giai đoạn này, sự phát triển của tiếng Việt diễn ra mạnh và nhanh, cùng một đà với quá trình biến đổi sâu sắc của xã hội Việt Nam trải qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó cũng là sự phát triển đã diễn ra với một lợi khí mới về chữ viết: "chữ quốc ngữ".
Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm, bằng chữ cái Latin(2). Loại chữ này đã được dùng phổ biến từ rất lâu, ở châu Âu. Đến thế kỉ 17, một số giáo sĩ phương Tây(3) đem nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạo ra một thứ chữ thuận lợi hơn đối với mục đích truyền đạo. Điều kiện quyết định sự thanh công của việc ghi âm như vậy là cách phát âm về cơ bản giống nhau giữa các địa phương. Điều kiện ấy đã có ở thế kỉ 17. Quả vậy, tiếng Việt trên toàn đất nước, như chính bản thân chữ quốc ngữ của thời kì này đã ghi lại, đã có, tự bấy giờ, một trình độ thống nhất rất cao(4).
Mấy thế kỉ tiếp theo, chữ quốc ngữ chỉ có phạm vi sử dụng hạn chế trong kinh bổn đạo Thiên Chúa. Một số trí thức sớm theo đạo này và sớm có "tây học", nhất là từ khi thực dân Pháp chiếm "Nam Kì", đã ra sức cổ động cho nó. Nhưng lời hô hào của họ không được hưởng ứng rộng rãi. Đó là do ý đồ của những người trí thức ấy không đi ra ngoài khuôn khổ của toàn bộ chính sách thống trị của kẻ xâm lược.
Thái độ lạnh nhạt đối với chữ quốc ngữ thay đổi kể từ khi hình thành các phong trào đấu tranh văn hoá có ý nghĩa chính trị, như phong trào Đông kinh nghĩa thục, ở đầu thế kỉ này. Những người lãnh đạo phong trào là một số nhà nho yêu nước, chống Pháp. Họ nêu việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trong sáu biện pháp của bản sách lược gọi là Văn minh tân học sách (1907), và lên tiếng kêu gọi đồng bào vì tương lai của đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy. Những tài liệu văn hoá bằng chữ quốc ngữ, do phong trào này phát hành, đã được phổ biến khá rộng.
Sách báo chữ quốc ngữ được xuất bản nhiều là từ khoảng 1920 trở về sau. Không những sách báo công khai mà cả sách báo bí mật. Công khai là những tờ "nhật trình", những "tuần san", "nguyệt san", những tiểu thuyết dịch từ Hán văn, Pháp văn lưu hành chủ yếu trong giới trí thức và tiểu tư sản ở các thành phố, các thị trấn. Bí mật là những tờ báo nhỏ, những tài liệu chính trị do các tổ chức như "Nông hội đỏ" chủ trương, phần lớn in bằng phương tiện thô sơ, được truyền tay nhau trong giới thợ thuyền ở những thành phố có ít nhiều cơ sở công nghiệp như Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định, Vinh, Sài Gòn,… và trong giới dân cày, ở những nơi có hình thức tổ chức "Nông hội đỏ". Những tài liệu chính trị quan trọng, như "Đường kách mệnh" (1925) của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, "Luận cương chính trị" (1930) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã được truyền đi, trong thời kì này.
Qua thời kì ấy, văn xuôi tiếng Việt đã thực sự ra đời và được luyện dần trong thể loại nghị luận chính trị, xã hội. Cách đặt câu đổi mới, coi trọng tính chất rõ ràng, khúc chiết, hơn là tính chất đối xứng, nhịp nhàng. Những tri thức mới về chính trị, về khoa học đòi hỏi nhiều từ mới phải đưa vào tiếng Việt. Những từ như kinh tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng, giai cấp,… xuất hiện trong tiếng Việt tự bấy giờ. Văn xuôi nghệ thuật cũng dần trở thành phổ biến. Lúc đầu còn là văn dịch, rồi khoảng từ 1930 trở về sau, lớp văn sĩ "tân học", ngày càng đông, đã sáng tác theo những thể loại mới: truyện ngắn, truyện dài, kịch nói,… Cuối cùng, văn xuôi rời bỏ hẳn lối đặt câu biền ngẫu, có xu hướng gần gũi hơn với lời nói bình thường. "Thơ mới" lại càng mạnh dạn hơn: nó phá bỏ những luật lệ khắt khe, xích tới gần văn xuôi. Trong phạm vi từ vựng thì thơ hay văn xuôi, thuộc xu hướng hiện thực hay lãng mạn, đều dựa vào lớp từ thuần Việt và đã làm cho lớp từ này tỏ rõ hiệu lực nghệ thuật của nó.
Trong khoa học tự nhiên và kĩ thuật thì số lượng thuật ngữ mới hoặc gốc Hán như: tâm, bán kính, ẩn số,…; hoặc gốc Pháp như: a-xít, ô-xy, mê-tan,… đã tăng lên nhiều, và bắt đầu được truyền bá qua một số công trình dịch thuật và biên soạn có tính chất giáo khoa phổ thông. Đó là những công trình có ý nghĩa quan trọng, do những nhà trí thức yêu nước chủ trương, để chứng minh hiệc lực khoa học của tiếng Việt trong địa hạt những khoa học chính xác – địa hạt mà chính quyền thực dân và những học giả bảo thủ cho rằng tiếng Việt là "bất cập". Cũng qua những công trình đó mà văn xuôi khoa học tiếng Việt hình thành và phát triển nhanh chóng.
Nhìn lại khoảng thời gian từ 1920, đặc biệt từ 1930, đến Cách mạng Tháng Tám, có thể nhận thấy rằng không khí đấu tranh chính trị, văn hoá rất sôi nổi đã có tác động rõ ràng tới sự phát triển của tiếng Việt. Nhưng từ các xu hướng khác nhau, cũng đã hiện ra những quan niệm không giống nhau về chuẩn mực của tiếng Việt: có quan niệm "hồi cổ", không thừa nhận những đổi mới đã thành phổ biến; có quan niệm "bình dân" muốn ghi chép lời nói thông thường, không theo những nền nếp của ngôn ngữ văn học, chuẩn hoá; có quan niệm "logic", muốn làm cho tiếng Việt gần gũi với cái logic chung, không cần chú ý tới mặt tâm lí của nhân dân đối với đặc điểm có tính chất dân tộc trong ngôn ngữ…
Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) của Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời trong hoàn cảnh đó. Xác định phương châm chung của cuộc đấu tranh vì một nền văn hoá cách mạng, bản đề cương rất chú ý tới vấn đề ngôn ngữ và đã đề cao giá trị khoa học, đồng thời rất coi trọng sự giữ gìn bản sắc dân tộc, cũng như tính nhân dân của tiếng Việt. Công việc nghiên cứu và biên soạn ngữ pháp tiếng Việt cũng đã được bản đề cương nêu lên thành một nhiệm vụ quan trọng.
__________
(1) "ngôn ngữ văn học" là ngôn ngữ đã phá triển đến trình độ thống nhất và chuẩn hoá; nó được thể hiện trong sáng tác nghệ thuật và cả trong các địa hạt văn hoá, khoa học.
(2) Ví dụ, âm tiết năm gồm có 3 âm vị đoạn tính, thì từng âm vị đươc ghi bằng các chữ cái: n, ă, m. Nghĩa của từ năm là gì (nghĩa số lượng hay thời gian) thì không được biểu hiện trên mặt chữ.
(3) Việc đặt ra chữ quốc ngữ thường được gắn liền với tên tuổi A. de Rhodes, người Avignon (thời bấy giờ chưa thuộc Pháp). Sự thật thì còn có những giáo sĩ khác, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã tham gia vào việc này.
(4) Từ thế kỉ 17 tới nay, ngữ âm tiếng Việt tất nhiên đã biến đổi. Cho nên, chữ quốc ngữ hiện nay có khác, so với chữ quốc ngữ ban đầu. Những sự khác biệt này là do điều chỉnh cho phù hợp với hệ thống ngữ âm đã biến đổi và ngoài ra, do cải biến nhằm bổ khuyết những sai sót của cách ghi âm thời đó nữa. Những điều chỉnh và cải tiến này được thực hiện qua thực tiễn sử dụng.
Theo Trung tâm KHXH&NV Quốc gia. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa học Xã hội, H., 2002, trang 18–22.
Đọc thêm:
Trở lại: 2. Tiếng Việt ở giai đoạn dùng chữ Nôm
Đọc tiếp: 4. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay