• Bỏ qua primary navigation
  • Skip to main content
  • Bỏ qua primary sidebar
  • Bỏ qua footer

ngonngu.net

Ngôn ngữ học và Tiếng Việt

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ
Bạn đang ở:Trang chủ / Ngôn ngữ học / Từ vựng / Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực: Từ cổ

Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực: Từ cổ

03/01/2007

ngonngu.net
03/01/2007Chuyên mục:
  • Từ vựng

• Từ cổ • Từ lịch sử • Từ mới

Từ cổ là những từ bị đẩy ra ngoài hệ thống từ vựng hiện tại, bởi trong quá trình phát triển, biến đổi, đã xảy ra những xung đột về đồng nghĩa hoặc đồng âm và bị từ khác thay thế.

Chính vì vậy các từ cổ đều có từ tương ứng, đồng nghĩa với chúng trong trạng thái từ vựng hiện đại.

Sự thật là mức độ tiêu biến của từ cổ không đồng đều. Có hai dạng cần phân biệt:

a. Những từ đã mất hẳn trong từ vựng hiện đại. Muốn tìm và hiểu những từ này phải lùi lại những tài liệu ghi chép đựơc trong quá khứ để khảo sát và phân tích. Ví dụ trong tác phẩm "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi (thế kĩV) có những từ cổ của tiếng Việt thuộc dạng này như: bui (chỉ); cốc (biết); chăng (không); khứng (chịu); mảng (nghe); mựa (đừng, chớ); mấy (với); tượng (có lẽ, hình như); thìn (giữ gìn); thửa (từ nối); phen (so bì); tua (nên); chỉn (chỉ, vẫn); phô (các, mọi); xoa (hẩm); lọn (trọn); hoà (và)…

b. Những từ đã bị đẩy khỏi vị trí vốn có của chúng nhưng vẫn còn để lại dấu vết của mình: trở thanh thành tố cấu tạo trong một vài từ nào đó; hoặc cũng có khi đứng trong một thành ngữ, tục ngữ nào đó mà người ta hiện nay không biết ý nghĩa của chúng là gì. Chẳng hạn, trong một số tác phẩm cổ thuộc các thế kỉ trước, chúng ta còn thấy có hàng loạt đơn vị như vậy (đối chiếu với các từ hiện đại tương ứng):

Âu (lo âu); lác (lác đác); lệ (e lệ); nàn (phàn nàn); bỏng (bé bỏng); rập (giúp rập); giã (giã từ); han (hỏi han)…

Lại có một số từ tuy không trở thành thành tố cấu tạo từ như trên mà vẫn đứng trong một số lối nói hạn chế nào đó; nhưng người ta ít hiểu hoặc không hiểu chúng nữa. Ví dụ:

khôn (khôn lường; khôn xiết); dấu (con vua, vua dấu, con châu chấu, châu chấu yêu; chúa dấu vua yêu một cái này – Hồ Xuân Hương); cả (sông cả; con cả; cả ăn cả mặc lại càng cả lo); đăm, chiêu (gà kia mày gáy chiêu đăm); giái (già giái non hột); dái (khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương);… (đăm = bên phải; chiêu = bên trái; giải = quả, trái; dái = sợ, kính, nể).


Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 226–228.

Đọc tiếp: Từ lịch sử

Chia sẻ:

  • Click to share on Facebook (Opens in new window)
  • Click to share on Twitter (Opens in new window)
  • Click to share on WhatsApp (Opens in new window)
  • Click to share on LinkedIn (Opens in new window)

Điều hướng bài viết

Bài trước Các lớp từ trong từ vựng: Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực
Bài tiếp theo Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực: Từ lịch sử

Sidebar chính

Mục lục

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ

Footer

Đăng kí theo dõi

Nhập địa chỉ email của bạn để nhận thông báo khi có bài mới.

Liên kết

  • Nhóm Facebook
  • Dự án S – Công cụ tiếng Việt
  • Paratime Studio

Tìm kiếm

Liên hệ và Hỗ trợ

  • Giới thiệu
  • Liên hệ

© 2023 ngonngu.net