II. Khả năng nắm chính tả tiếng Việt một cách có hệ thống
1. Do với từng phương ngữ chỉ có một số lượng âm tiết nhất định là có vấn đề chính tả, nên muốn nắm chính tả tiếng Việt, không cần phải nắm chính tả của mỗi từ ngữ như thông thường đối với chữ viết của nhiều ngôn ngữ, mà chỉ cần nắm chính tả của một số lượng âm tiết cụ thể nhất định, khác nhau đối với từng phương ngữ. Lấy ví dụ với người nói phương ngữ miền Bắc, có vấn đề chính tả: viết CH- hay TR-? Có tất cả 575 âm tiết CH-/TR-, trong đó có 343 âm tiết CH- và 232 âm tiết TR- đối lập (nói cách khác, có 181 cặp âm tiết đối lập CH-/TR-); có 162 trường hợp chỉ có âm tiết CH-, không có âm tiết TR- đối lập, trong khi chỉ có 51 trường hợp ngược lại, chỉ có âm tiết TR-, không có âm tiết CH- đối lập. Như vậy, âm tiết TR- ít hơn nhiều so với âm tiết CH-. Nắm chính tả của số ít 232 âm tiết TR- này (chỉ chiếm 40% tổng số âm tiết CH-/TR-), chú ý đặc biệt 181 trường hợp có cặp âm tiết đối lập CH- và TR-, thì khi cần thiết chúng ta có thể suy ra biết một trường hợp cụ thể nào đó, vì không viết TR-, nên chỉ có thể viết CH-; sự suy đoán này chỉ có thể không đúng trong trường hợp hãn hữu nằm ngoài bảng thống kê chúng ta có.
2. Trên thực tế, với mỗi người, số lượng âm tiết cần nắm chính tả ít hơn nhiều, một phần vì do không ít từ ngữ chúng ta thường đọc thấy hoặc thường phải viết hằng ngày, chính tả đối với chúng ta đã quá quen thuộc, ví dụ trong những người nói phương ngữ miền Bắc có lẽ không mấy ai phân vân không biết chanh chua nên viết CHANH CHUA hay “TRANH TRUA”, trai trẻ nên viết TRAI TRẺ hay “CHAI CHẺ”; một phần vì có một số âm tiết-hình vị hoàn toàn mới lạ đối với chúng ta, được sử dụng trong những từ chúng ta không hiểu nghĩa, thí dụ trấp (dưỡng trấp), trẩu (đầu trẩu) đối với một số người; hoặc vì có một số âm tiết-hình vị chỉ dùng trong cấu tạo của những từ phương ngữ khác, mà bản thân chúng ta (nói phương ngữ miền Bắc) thực tế không biết, không dùng bao giờ, năm thì mười hoạ mới đọc thấy trên sách báo, ví dụ tràu (cá tràu = cá quả), trộng (nuốt trộng = nuốt chửng), xuổng (= thuổng), sớn sác (= nhớn nhác), thì thực tế cũng không cần nắm chính tả. Loại đi ba loại âm tiết nói trên, mỗi người chúng ta có được một danh sách những âm tiết cụ thể cần nắm chính tả, danh sách này có bao nhiêu âm tiết là tuỳ theo trình độ hiểu biết tiếng Việt của mỗi người, nhưng nói chung không nhiều.
3. Trong vấn đề chính tả tiếng Việt có vấn đề chính tả các âm tiết Hán-Việt (sau đây gọi tắt là âm tiết HV), tức là những âm tiết-hình vị trong cấu tạo từ Hán-Việt đa tiết (sau đây gọi tắt là hình vị HV), cần được đặc biệt chú ý. Trong tổng số 6.178 âm tiết của tiếng Việt đã thống kê, có 1.536 âm tiết HV, chiếm một tỉ lệ không lớn (23%). Vì có hiện tượng đồng âm, tương ứng với một âm tiết HV có thể có nhiều hình vị HV (thường viết bằng những chữ Hán khác nhau), hiện tượng này khá phổ biến, nên tương ứng với 1.536 âm tiết HV có 2.976 hình vị HV, tạo ra tất cả 12.668 từ ngữ Hán-Việt thường dùng, chỉ tính những từ ngữ nói chung đã được thu thập trong TĐTV. Hình vị HV phần lớn không được sử dụng như từ đơn tiết, nghĩa của hình vị HV lắm khi không thật rõ, nghĩa đã không rõ thì chính tả cũng khó nắm. Nhưng trong tổng số 1.536 âm tiết HV, thì đối với người nói phương ngữ miền Bắc, chẳng hạn, chỉ có 121 âm tiết HV CH-/TR- + 197 âm tiết HV S-/X- + 73 âm tiết HV D- hoặc GI (không có âm tiết HV R-) + 53 âm tiết HV -IU hoặc -ƯU, -IÊU hoặc -ƯƠU (không kể những âm tiết có phụ âm đầu CH-/TR-, S-/X-, D-/GI-) = 334 âm tiết HV là có vấn đề chính tả. Người nói phương ngữ miền Bắc chỉ cần nắm chính tả của 334 âm tiết HV này là thực tế nắm được chính tả của trên 12.500 từ ngữ Hán-Việt thường dùng.
4. Có những quy tắc chính tả, mà dựa vào đó có thể nắm được tương đối dễ dàng chính tả một số âm tiết nhất định. Ví dụ, với các âm tiết D-/GI-/R-:
- Trong âm tiết HV, chỉ có âm tiết D- và âm tiết GI-, không có âm tiết R-.
- Hình vị HV d-/gi- có âm chính /a/ phần lớn viết bằng GI-, và ngược lại, các âm tiết HV GI-, chỉ trừ giới(1), đều viết những hình vị HC d-/gi- có âm chính /a/: gia, già, giả, giá, giác, giai, giải, giam, giảm, giám, gian, giản, gián, giang, giảng, giáng, giao, giảo, giáo, giáp (20 âm tiết); viết D- chỉ có dã, dạ, dạng, danh, dao.
- Hình vị HV d-/gi- có âm chính là những nguyên âm khác, không phải là /a/ đều viết D-: dâm, dân, dần, dẫn, dật, di, dĩ, dị, dịch, diêm, diễm, diệm, diên, diễn, diện, diệp, diệt, diêu, diệu, dinh, dĩnh, do, doanh, dõng, du, dụ, dục, duệ, dung, dũng, dụng, duy, duyên, duyệt, dư, dực, dược, dương, dưỡng (40 âm tiết); viết GI- chỉ có giới – một trường hợp ngoại lệ hoàn toàn có lí do.
Như vậy, nắm hai quy tắc b) và c) trên đây, đồng thời nắm chính tả của giới, dã, dạ, dạng, danh, dao, chú ý phân biệt DAO và GIAO, trường hợp duy nhất có âm tiết D- và âm tiết GI- đối lập, là thực tế nắm được chính tả của toàn bộ 66 âm tiết HV D-/GI-. Cũng có thể chú ý thêm là hình vị HV d-/gi- thanh hỏi và thanh sắc đều viết bằng GI-, thanh ngã và thanh nặng đều viết bằng D-, cho nên giả, giá, giáng viết với GI-, trong khi dã, dạ, dạng viết với D-. - Từ tượng thanh, tượng hình hầu hết là âm tiết (không phải HV) r-: ra rả, rầm rập, róc rách, rộn rịp, rời rạc, rù rờ, rũ rượi, v.v…
5. Dựa trên những nhận xét trên đây, có thể rút ra mấy kết luận có ý nghĩa thực tiễn:
- Chính tả tiếng Việt có thể nắm một cách có hệ thống với một phương pháp thích hợp, điều này có thể thực hiện trong một thời gian tương đối ngắn. Hoàn toàn có thể dạy cho học sinh viết đúng chính tả khi học xong cấp trung học cơ sở.
- Dạy và học tiếng Việt, trong điều kiện có thể, nên dạy và học lối phát âm phản ánh trên chữ viết, điều này giúp rất nhiều cho việc nắm chính tả.
______________
(1) giới vốn là giái, nói trại do kiêng tránh (giái đồng âm với dái); giái, viết GIÁI, từ lâu không dùng nữa, nhưng chính tả với GI- vẫn giữ lại ở giới; trong Đại Nam Quấc âm Tự vị của Huình Tịnh Của (1895), chỉ có giái (viết thế giái, khí giái,…), không có giới.
Trích trong Hoàng Phê. Chính tả tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng 2003. Trang IV–IX
Trở lại: I. Đặc điểm chữ viết tiếng Việt
Đọc tiếp: III. Vấn đề cải tiến chính tả