1. Trước hết, có thể nêu định nghĩa sau đây:
Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa.
Ví dụ: Trong tiếng Anh có 3 từ “to, too, two” (đọc là [tu]) làm thành một nhóm từ đồng âm.
Tiếng Việt cũng có những nhóm đồng âm như:
– đường1 (đường tàu Thống Nhất); đường2 (mua một cân đường).
– sao1 (ông sao trên trời); sao2 (sao anh lại làm như thế); sao3 (đi sao giấy khai sinh); sao4 (sao thuốc nam)…
2. Hiện tượng đồng âm nói chung và từ đồng âm nói riêng thường xuất hiện ở những đơn vị có kích thước vật chất không lớn, tức là có thành phần phần ngữ âm không phức tạp. Vì vậy, ta chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu, và đây là nét chủ đạo. Còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm từ thì rất hiếm hoi.
Chẳng hạn, những loại đồng âm như: “the sun’s rays meet” // “the sons raise meat” hoặc “jack in the box” // “jack-in-the-box” trong tiếng Anh là rất ít gặp.
Mỗi hiện tượng đồng âm ở những cụm từ như vậy chỉ lập thành được từng cặp mà thôi. Trong khi đó các từ trong một nhóm từ đồng âm có thể là hai, ba hoặc dăm bảy từ. Thậm chí nhiều hơn nữa.
Hiện tượng từ đồng âm có mặt trong ngôn ngữ là một tất yếu vì số lượng âm thanh mà con người phát ra được và dùng làm vỏ ngữ âm cho các từ, dù có nhiều đến mấy cũng chỉ có giới hạn của nó.
3. Từ đồng âm trong tiếng Việt, do đặc trưng loại hình đơn lập của tiếng Việt quy định, có những đặc điểm riêng.
3.1. Trước hết, vì tiếng Việt không biển hình nên những từ nào đồng âm với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi bối cảnh được sử dụng. Đặc điểm này rất khác so với các ngôn ngữ biến hình Ấn Âu.
Một từ trong các ngôn ngữ biến hình có thể tham gia vào nhóm đồng âm nào đó ở dạng thức này mà lại không đồng âm ở dạng thức khác. Có nghĩa là chúng có thể đồng âm với nhau ở một hoặc vài dạng thức chứ không nhất thiết đồng âm ở mọi dạng thức. Ví dụ, trong tiếng Anh:
Động từ (to) meet nguyên dạng, đồng âm với danh từ meat, nhưng dạng thức quá khứ của động từ này (met) thì lại không. Các từ saw (“tục ngữ, cách ngôn”) – saw (“cái cưa”) – sore (“đau đớn”) đồng âm với nhau và đồng âm với saw (dạng quá khứ của động từ (to) see).
3.2. Vì tiếng Việt không có sự đối lập gốc từ với phụ tố, các từ được tạo nên chủ yếu bằng sự kết hợp với tiếng, cho nên đồng âm giữa từ với từ là kết quả của đồng âm tiếng với tiếng. Điều này đã được triệt để khai thác khi người Việt sử dụng đồng âm trong nghệ thuật chơi chữ của mình, đến mức, chẳng hạn tên riêng Hitle đã được tách ra hai tiếng và được liên hội với hai động từ hít và le. Người ta thách đối “Hít – Le”, và được đối lại cùng bằng một tiên riêng của người Việt bằng con đường liên hội tương tự “Phùng – Há”.
4. Các từ đồng âm có thể được phân chia thành các kiểu loại. Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng của từng ngôn ngữ cụ thể, bức tranh phân loại có thể khác nhau.
4.1. Chẳng hạn, đối với các từ đồng âm tiếng Anh, người ta chia ra:
4.1.1. Những từ đồng âm, đồng tự:
coper (anh lái ngựa) – coper (quán rượu nổi)
jet (màu đen hạt huyền) – jet (tia nước, tia máu,…).
4.1.2. Những từ đồng âm, không đồng tự:
son (con trai) – sun (mặt trời)
meat (thịt) – meet (gặp)
Loại đồng âm này là phổ biến nhất
4.1.3. Những từ đồng tự không đồng âm:
tear ([tεə]) (xé, bứt mạnh) – tear ([tiə]) (nước mắt)
4.2. Các từ đồng âm tiếng Nga lại có thể được phân loại theo kiểu khác, thành đồng âm hoàn toàn và đồng âm không hoàn toàn (đồng âm bộ phận).
4.2.1. Từ đồng âm hoàn toàn là những từ trùng nhau về ngữ âm trong tất cả mọi dạng thức ngữ pháp của chúng. Ví dụ:
лук1 (cái cung) – лук2 (củ hành)
4.2.2. Đồng âm bộ phận là những từ chỉ đồng âm với nhau ở một hoặc vài ba dạng thức ngữ pháp nào đó. Ví dụ:
бор1 (rừng tai ga) – бор2 (nguyên tố hoá học Bo) – бор3 (mũi khoan kim loại có răng)
Ba danh từ này chỉ đồng âm với nhau khi бор [1] ở dạng thức cách một, bởi vì бор2 và бор3 không có dạng thức số nhiều.
4.3. Trong tiếng Việt, tình hình phân loại từ đồng âm có khác. Có thể nêu một trong những cách phân loại như sau:
4.3.1. Đồng âm từ với từ: Ở đây tất cả các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm đều thuộc cấp độ từ. Loại này lại được chia thành hai loại nhỏ hơn.
4.3.1.1. Đồng âm từ vựng: Tất cả các từ đều thuộc cùng một từ loại. Ví dụ:
– đường1 (đắp đường) – đường2 (đường phèn).
– đường kính1 (một loại đường để ăn) – đường kính2 (dây cung lớn nhất của đường tròn).
– cất1 (cất vó) – cất2 (cất tiền vào tủ) – cất3 (cất hàng) – cất4 (cất rượu)
– …
4.3.1.2. Đồng âm từ vựng-ngữ pháp: Các từ trong nhóm đồng âm với nhau chỉ khác nhau về từ loại. Ví dụ:
– chỉ1 (cuộn chỉ) – chỉ2 (chỉ tay năm ngón) – chỉ3 (chỉ còn có dăm đồng).
– câu1 (nói vài câu) – câu2 (rau câu) – câu3 (chim câu) – câu4 (câu cá)
Loại từ đồng âm này chiếm số đông trong tiếng Việt.
4.3.2. Đồng âm từ với tiếng. Ở đây, các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm khác nhau về cấp độ, và kích thước ngữ âm của chúng đều không vượt quá một tiếng.
Ví dụ:
– Con trai Văn Cốc lên dốc bắn cò, đứng lăm le cười khanh khách. Con gái Bát Chàng bán hàng thịt ếch ngồi châu chẫu nói ương ương.
– Nhà cửa để lầm than con thơ trẻ lấy ai rèn cặp
Cơ đồ đành bỏ bễ vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.
Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997.
Tham khảo:
Đọc tiếp: