• Tiền đề cho sự phân loại
• Ba phương pháp cơ bản thường được áp dụng trong so sánh ngôn ngữ
• Những lưu ý khi so sánh các ngôn ngữ
• Những việc phải làm để so sánh và phân loại ngôn ngữ theo nguồn gốc
1. Tiền đề cho sự phân loại [1]
Trong lịch sử, có những ngôn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia tách ra thành nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường được gọi là ngôn ngữ mẹ hay ngôn ngữ cơ sở. Như vậy, về nguyên tắc, có thể tìm tòi ngược dòng thời gian lịch sử của những ngôn ngữ được giả định là vốn cùng “sinh ra” từ một ngôn ngữ mẹ, để quy chúng vào những nhóm, những chi, những ngành, những dòng… khác nhau, tuỳ theo mức độ thân thuộc nhiều hay ít.
Ba mặt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ và các tiểu hệ thống của nó biến đổi không đồng đều, có những mặt, những yếu tố… được bảo toàn rất lâu dài; nhưng cũng có những yếu tố đã biến đổi với những mức độ khác nhau. “Hầu như trong mỗi từ hoặc mỗi hình thức của từ lúc nào cũng có một cái gì đó mới và một cái gì đó cũ”.
Sự biến đổi ngữ âm (điều cần tìm kiếm đầu tiên trong khi nghiên cứu quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ) không phải là những biến đổi hỗn loạn mà thường có lí do, có quy luật và theo hệ thống.
Tiền đề quan trọng nhất là tính võ đoán trong quan hệ ngữ âm với ý nghĩa.
(…)
Bởi thế, ta có quyền giả định rằng: những từ gần gũi nhau về âm thanh có liên quan hoặc gắn bó với nhau ở ý nghĩa thường luôn luôn bắt nguồn từ cùng một gốc nào đó.
Ví dụ minh hoạ:
Việt | Mường | Chứt | Môn | Khmer |
---|---|---|---|---|
một | mộc | môch | mual | muôi |
ba | pa | pa | pi | bây |
nước | đak | đak | dak | tuk |
tay | thai | si | tai | dây |
đầu | tlôk | kulôk | kduk | kbal |
tóc | thak | usuk | sok | sof |
Việt | Mường | Việt | Mường | Việt | Mường |
---|---|---|---|---|---|
gà | ca | ba | pa | mắm | bẳm |
gái | cải | bốn | pốn | muối | bói |
gạo | cáo | bảy | pảy | măng | băng |
gốc | cốc | bay | păn | may | băl |
2. Ba phương pháp cơ bản thường được áp dụng trong so sánh ngôn ngữ [2]
2.1 – Phương pháp so sánh – lịch sử [3]
“Để phát hiện ra sự thân thuộc giữa các ngôn ngữ người ta dùng phương pháp so sánh – lịch sử. Nội dung của phương pháp này là so sánh các từ và dạng thức của từ tương tự nhau về ý nghĩa và âm thanh trong các ngôn ngữ khác nhau dựa vào tài liệu ngôn ngữ sống cũng như những sự kiện, hiện tượng được ghi trên văn bia và thư tịch cổ. Phương pháp so sánh lịch sử cũng rất chú trọng so sánh các hiện tượng ngữ âm, nhưng tất nhiên các hiện tượng ngữ âm được tìm hiểu thông qua việc so sánh các từ và dạng thức từ đã nói ở trên”.
… “nội dung của phương pháp so sánh – lịch sử là qua việc so sánh tìm ra các quy luật tương ứng về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp rồi qua đấy xác định quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ”.
Khi so sánh cần chú ý:
– Cơ sở của sự so sánh là sự giống nhau của âm và nghĩa, nhưng có nhiều kiểu giống nhau và nhiều nguyên nhân làm cho giống nhau.
+ Trước hết, sự giống nhau có thể là do kết quả của hiện tượng vay mượn từ. Các từ vay mượn không phản ánh quan hệ nguồn gốc giữa các ngôn ngữ. Cho nên khi so sánh cần chọn lớp từ vựng cơ bản, từ vựng gốc của mỗi ngôn ngữ.
+ Mặt khác, sự giống nhau của các từ trong các ngôn ngữ có thể chỉ là ngẫu nhiên. Một hiện tượng được coi là bằng chứng của quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ khi nào nó được tìm thấy trong cả một loạt từ của nhiều ngôn ngữ.
– Thừa nhận ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội – lịch sử, phương pháp so sánh – lịch sử không đòi hỏi các sự kiện được so sánh phải giống nhau hoàn toàn (về ngữ nghĩa và ngữ âm) mà chỉ cần tương ứng nhau một cách có quy luật.
Và, phương pháp so sánh – lịch sử chẳng những xác định được nguồn gốc lịch sử của các ngôn ngữ mà còn xác định được những quy luật phát triển lịch sử của chúng. Phương pháp so sánh – lịch sử vừa xác định được bản chất chung giữa các ngôn ngữ thân thuộc vừa xác định được bản chất riêng của mỗi ngôn ngữ trong hệ thống các ngôn ngữ thân thuộc.
2. 2 – Phương pháp so sánh loại hình
Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho nghiên cứu, phân loại các ngôn ngữ theo loại hình. Mục đích của nó là nghiên cứu những đặc trưng của các loại hình ngôn ngữ và nghiên cứu những đặc trưng về mặt loại hình của các ngôn ngữ; để quy những ngôn ngữ cụ thể vào những loại hình khác nhau.
2. 3 – Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp này áp dụng cho việc đối chiếu các ngôn ngữ khác nhau, bất kể chúng có quan hệ nào về mặt cội nguồn hoặc loại hình hay không. Nó không nhằm phát hiện quan hệ cội nguồn hay sự tương đồng về loại hình giữa các ngôn ngữ đó; mà nhằm mục đích phát hiện những tương đồng và khác biệt chủ yếu trên diện đồng đại ở một hay nhiều bình diện, bộ phận của ngôn ngữ đó.
3. Những lưu ý khi so sánh các ngôn ngữ
– Việc so sánh được tiến hành không thể chỉ căn cứ vào riêng một mặt ngữ âm hay ngữ pháp. Vì:
+ thứ nhất là, những đặc điểm trong cơ cấu ngữ âm hay ngữ pháp của các ngôn ngữ, mặc dù nhiều nhưng cũng chỉ là hữu hạn. Do vậy, có thể có những đặc điểm, hiện tượng cùng xuất hiện trong nhiều ngôn ngữ khác nhau mà chắc chắn những ngôn ngữ đó lại không có quan hệ gì với nhau về cội nguồn. Theo V. B. Kasevich, ở nhiều ngôn ngữ ở ĐNA và Tây Phi tuy chúng có thanh điệu và thậm chí có những điểm giống nhau đến kì lạ về ngữ pháp nhưng rõ ràng là không có lí do gì để khẳng định chúng có quan hệ cội nguồn với nhau.
+ thứ hai là, đôi khi ngược lại, có những ngôn ngữ chắc chắn có quan hệ họ hàng với nhau nhưng trong cấu trúc của chúng lại có những khác biệt rất đáng kể.
– Các từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên (thường là rất ít, vd: cắt – cut trong tiếng Việt và tiếng Anh); từ vay mượn (ngôn ngữ nào cũng có) đề phải gạt ra ngoài khi tiến hành công việc khảo sát.
– Nghiên cứu cội nguồn của ngôn ngữ trước hết phải chú ý đến vốn từ cơ bản. Đó là bộ phận từ vựng bền vững nhất, có lịch sử xa xưa nhất, được mọi người, mọi nơi, vào mọi lúc đều có thể sử dụng. Vd: các từ chỉ bộ phận cơ thể, chỉ các hiện tượng tự nhiên, chỉ các hoạt động cần phải có cho sự tồn tại của cơ thể… Vì thế, điểm quan trọng là chứng có thể bảo lưu được, hoặc phản ánh được những yếu tố, những đặc điểm chắc chắn là cổ xưa.
– Các sự kiện được đưa ra làm cứ liệu so sánh không đòi hỏi phải giống nhau hoàn toàn về mọi mặt. Điều quan trọng ở đây là khảo sát xem chúng (các ngôn ngữ) có những tương ứng với nhau trong hàng loạt trường hợp hay không. Chính các thế tương ứng đó lại là những chứng có rõ ràng nhất, tốt nhất về quan hệ họ hàng giữa các ngôn ngữ.
– Khi xác lập được những dãy sự kiện trong hai ngôn ngữ và chứng minh được rằng những dẫy đó có quan hệ nguồn gốc với nhau thì điều này vẫn chưa đủ để nói là hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng.
4. Những việc phải làm để so sánh và phân loại ngôn ngữ theo nguồn gốc
Có thể quy về ba việc quan trọng nhất, ứng với ba bước sau:
– Thứ nhất, chọn sự kiện (cái đưa ra để so sánh) và lập thành những dãy tương ứng với nhau. Cái được đưa ra ở đây phải là từ hoặc hình vị, bởi vì đây là những đơn vị tối thiểu, được xét cả ở hai mặt ý nghĩa và âm thanh. Điều quan trọng nhất là phải xem xét những tương ứng tìm được có hiện diện đều đặn trong hàng loạt trường hợp hay không. Nếu tìm được những tương ứng thuộc lĩnh vực ngữ pháp (hình thái học) giữa hai ngôn ngữ, thì sự tương ứng đó rất có giá trị.
– Thứ hai, xác định niên đại và phục nguyên. Sau khi lập được những thế tương ứng của các yếu tố, các dạng, người ta tiến tới xác định xem dạng nào cổ hơn dạng nào; hoặc cả hai cùng bắt nguồn từ dạng thứ ba cổ hơn. Từ chỗ phục nguyên được dạng cổ, so sánh với các dạng có sau, ta mới vạch ra được các sự kiện ngôn ngữ đã diễn biến trong lịch sử như thế nào. Và cuối cùng, mục tiêu lí tưởng là phục nguyên được cấu trúc hoàn chỉnh của ngôn ngữ mẹ ban đầu.
– Thứ ba, căn cứ vào kết quả của hai bước trên và cân nhắc tới nhiều phương diện khác người ta mới xác định được mức độ thân thuộc nhiều hay ít giữa các ngôn ngữ, để làm một việc có thể coi là cuối cùng trong nghiên cứu cội nguồn, là quy chúng vào nhóm nào trong các chi (nhánh) thuộc ngành và dòng nào trong các ngữ hệ (họ ngôn ngữ).