Ngoài hai đơn vị chiết đoạn tính trên, không thể không kể tới loại đơn vị chiết đoạn tính thứ ba là thanh điệu. Hệ thống thanh điệu này gồm 8 âm vị sau đây:
STT | Quốc ngữ | Phiên âm | Ví dụ |
---|---|---|---|
1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. |
ø \ ~ ? / . “/” “.” |
1 2 3 4 5 6 7 8 |
ta tà tã tả tá tạ tát tạt |
Để biểu diễn âm vị học cho các thanh vị, chúng ta cần liệt kê ra các nét khu biệt cua thanh vị tiếng Việt. Các thanh điệu tiếng Việt khu biệt nhau theo các đặc điểm về mặt cao độ và các đặc điểm về mặt cấu âm (Các đặc điểm không thuần tuý do cạo độ quy định). Đó là những dấu vết còn lại trong sự tiến hoá từ chiết đoạn tính sang siêu đoạn tính (từ một ngôn ngữ không có thanh điệu trở thành ngôn ngữ có thanh điệu) chúng ta gọi đó là những nét [+sạn]. các nét khu biệt của thanh điệu tiếng Việt được thể hiện trong Ma trận thanh điệu tiếng Việt dưới đây:
Thanh vị | Nét khu biệt | ||||||||||
Cao/ Thấp | Bằng/ Trắc | 1 hướng/ 2 hướng | Sạn | ||||||||
1 2 3 4 5 6 7 8 |
|
|
|
|
Ma trận này, nhìn theo sự phân loại lưỡng phân hoá của âm vị học hiện đại tạo nên sơ đồ cây:
Lưu ý: Thuộc tính [+sạn] là nét dư đối với thanh trắc truyền thống: 3,4,5,6.
Quá trình hình thành thanh điệu tiếng Việt đã chứng minh sự lột xác gần như hoàn toàn của các thuộc tính cố hữu và chiết đoạn nằm trong các thanh này. Tuy nhiên, trong sự hiện thực hoá của các phương ngữ, người ta vẫn còn thấy lác đác các dấu vết chiết đoạn trong các hệ thanh khập khiễng như:
Tiếng Thanh Hoá & Nam Bộ: ngã – hỏi nhập 1;
Tiếng Nghệ: ngã – nặng nhập 1;
Hà Tĩnh, Quảng Bình: hỏi – sắc dễ bị nhầm lẫn.
Một số nơi khác: 4 thanh trắc này có thể chỉ còn 2 hoặc 3 hoặc 1 thanh vị (tiếng Nghi Lộc)…
Để biểu diễn âm vị học cho thanh vị, chúng ta xếp phần biểu diễn thanh vào phần cuối cùng ở vế bên phải của một biểu diễn âm vị học. Ví dụ với trường hợp thanh 4 trong âm [kwa4] (“quả”):
+ PAT + tắc + răng-lợi + ngạc mềm |
+ NAT + đơn – trước – sau + thấp |
+Tròn môi | +TĐT – bằng – đơn hướng + cao |
|||||||||||||||
Phía trái | Phía phải |
Bất kì một tiết vị nào trong tiếng Việt cũng được biểu diễn âm vị học nhằm lột tả được những thuộc tính ngữ âm và thực thể mà mỗi đơn vị âm thanh trong đó chứa. Mặt khác, qua biểu diễn âm vị học, có thể nhìn thấy những tương quan khác nhau mang tính hệ thống của các âm vị các điệu vị và các thuộc tính âm vị học có trong một âm vị hoặc một điệu vị.
Nếu ở các âm vị bình thường và các thanh vị, nội dung âm vị học của chúng không bao giờ nhỏ hơn sơ với 2 nét khu biệt, thì đối với các điệu vị như [+ tròn môi] hoặc [+ căng], sự biểu diễn âm vị học cho chúng lại chỉ là một nét đơn nhất mà thôi. Như vậy, định nghĩa về âm vị là một chùm nét khu biệt không hoàn toàn đúng với trường hợp các điệu vị. Mỗi một điệu vị thường chỉ là nét khu biệt. Có lẽ vì thế mà Đoàn Thiện Thuật và những người cùng trường phái với ông đã mắc sai lầm khi liệt kê âm đệm thành một phần trong giá trình trong khi đó là một đơn vị thiếu, không đầy đủ: một tiểu hệ thống chỉ có hai đơn vị là nó và không phải là nó. Đó là chính là điểm yếu nhất của Ngữ âm học tiếng Việt. Vì vậy, nét [+ tròn môi] là một điệu vị chứ không phải là một âm vị.
Đối với nét [+căng] cũng tương tự như vậy.
Tóm lại: Một biểu diễn âm vị học bao gồm:
– Phần phía trái của biểu diễn âm vị học để thể hiện cấu trúc chiết đoạn của một tiết vị trong đó có C1-V-C2
– Phái phải để biểu diễn các điệu vị và thanh vị trong đó đầu tiên là điệu vị [tròn môi] rồi đến điệu vị [căng] và kết thúc là [thanh vị].
Một biểu diễn gọi là đúng đắn khi nó loại trừ được tất cả các nét dư có trong một nội dung âm vị học. Ví dụ cho trường hợp biểu diễn âm vị học có đầy đủ các thành phần:
+ PAT + tắc + ngạc mềm |
+ NAT + đơn – trước – sau + thấp |
+ PAT – NAT + tắc + ngạc mềm |
+ tròn môi | + căng | + TĐT + cao – bằng + đơn hướng |
|||||||||||||||||||||
Trở lại: