• Một đợt tiếp xúc ngôn ngữ mới • Sự xuất hiện chữ quốc ngữ • Xu hướng đơn tiết triệt để nhất
6.1. Tính chất và thời gian tương đối
– Về mặt thời gian
Giai đoạn này ước chừng kéo dài từ cuối thế kỉ 15 (đầu thế kỉ 16) cho đến đầu thế kỉ 19. Đây là thời kì, về cơ bản, tiếng Việt đã hình thành nên các vùng phương ngữ như đã có như hiện nay theo hướng tiếng Việt từng bước tiến dần về phương Nam theo con đường phát triển của dân tộc.
Giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu có sự tiếp xúc giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ châu Âu, mà trước hết là tiếng Tây Ban Nha, sau đó là tiếng Pháp và đến các ngôn ngữ châu Âu khác.
Năm 1651, ở Roma đã xuất bản cuốn "Từ điển Annam – Bồ Đào Nha – Latin" (Annam – Lustin – Latin) do cha cố A. de Rhodes soạn. Với sự kiện này, tiếng Việt lần đầu tiên được ghi chép bằng chữ Latin.
– Đồng thời, giai đoạn này cũng là một giai đoạn quan trọng của lịch sử phát triển tiếng Việt với 2 điểm đáng chú ý sau:
+ Thứ nhất, tiếng Việt lại bắt đầu có một đợt tiếp xúc mới và đợt tiếp xúc này góp phần làm phong phú tiếng Việt ở cả khía cạnh từ vựng và đặc biệt là khía cạnh ngữ pháp. Và, tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ mà chữ viết của nó theo hệ Latin chứ không phải chữ khối vuông hay chữ Sanskrit.
+ Thứ hai, Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ toàn dân đã vươn lên giữ vai trò là một ngôn ngữ văn học bác học, và thậm chí đã có thời kì nó giữ vai trò là ngôn ngữ hành chính của nhà nước. Đây cũng là thời kì mà văn học chữ Nôm phát triển mạnh nhất, trong một chừng mực nào đó nó còn phát triển hơn cả văn học chữ Hán.
6.2. Những đặc điểm chính về ngôn ngữ
– Vào giai đoạn này, tiếng Việt có xu hướng đơn tiết hoá triệt để nhất. Điều này có nghĩa là những từ mà từ thời tiền Việt-Mường có tổ hợp phụ âm đầu hay có cấu tạo tiền âm tiết, cho đến giai đoạn này, đều trở thành những âm tiết chỉ có một phụ âm đầu đơn. Và dấu tích cuối cùng của hiện tượng này được ghi trong từ điển của A. de Rhodes.
Vd: "trâu" được ghi là tlâu hoặc trâu
Bên cạnh việc xử lí bl, tl thành một âm quặt lưỡi (như ở ví dụ trên), đôi khi từ điển của A. de Rhodes cũng ghi tương ứng với tổ hợp phụ âm này là một âm s hoặc gi.
Ví dụ: "gà trống" —– gà sống
"trăng sáng" —- giăng sáng
Như vậy, có thể nói, vào giai đoạn này tiếng Việt đã phát triển tương đối hoàn chỉnh.
– Do điều kiện phát triển của tiếng Việt, ở thời kì này tiếng Việt là một ngôn ngữ đã có chữ viết Latin và đây là kiểu chữ thứ 2 của riêng người Việt trong lịch sử phát triển của mình.