• Từ cổ • Từ lịch sử • Từ mới
Có nhiều con đường dẫn tới việc xuất hiện cũng như có nhiều cách cấu tạo từ ngữ mới [1]. Tuy nhiên, đó là một chuyện, còn vị trí và vai trò của các từ ngữ mới đối với từ vựng và đời sống giao tiếp lại là chuyện khác.
a. Khi một từ vừa mới xuất hiện, chắc chắn chưa có nhiều người trong phạm vi xã hội biết đến. Nó còn nằm trong phạm vi giao tiếp hẹp nào đó. Vì thế nó thuộc về lớp các từ ngữ tiêu cực.
Tuy vậy, nếu sau đó, từ này được chấp nhận và phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi thì nó lại nhanh chóng đi vào lớp từ vựng tích cực. Do đó, cái gọi là từ mới phải luôn được xét trong một thời gian cụ thể, một tình trạng từ vựng cụ thể. Chẳng hạn hiện nay [năm 1997] trong tiếng Việt các từ ngữ: tin học, phần cứng, phần mềm, đầu vào, đầu ra… mới được nói tới trên một số phương tiện thông tin đại chúng. Chúng chưa được dùng phổ biến sâu rộng trong phạm vi toàn xã hội và chưa đứng vào lớp từ tích cực của toàn dân. Thời gian và sự sử dụng của xã hội đối với những từ này trong tương lai sẽ trả lời: chúng có đứng vào lớp từ đó hay không.
Ngược dòng thời gian cách đây khoảng 10 – 15 năm, các từ cát xét, tủ lạnh, bếp ga… vẫn còn là những tên gọi mới trong từ vựng tiếng Việt, giống như các từ: kháng chiến, súng cối, đại liên, tiểu liên, trung đội, dân công, vành đai, tề, nguỵ, lô cốt… trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp hoặc: Việt minh, phê bình, Liên Xô, uỷ ban, yêu cầu, phân công, đoàn thể… vào thời kì Cách mạng tháng Tám vậy. Thế nhưng ngày nay, các từ đó đã đi vào lớp từ tích cực của tiếng Việt; và màu sắc mới của chúng không còn nữa.
Thời gian để cho một từ mới có chính thức đi vào lớp từ tích cực hay không, thường là ngắn, thậm chí đôi khi rất ngắn. Ngược lại, thời gian để một từ trở nên cũ hoặc cổ thường là kéo dài hơn vì nó tồn tại dai dẳng khá lâu.
b. Từ vựng của mọi ngôn ngữ được phong phú hoá, đa dạng hoá không phải chỉ ở chỗ có những từ ngữ mới xuất hiện. Nó còn thể hiện ở việc tạo dựng nghĩa mới cho những từ hiện có; hoặc tìm tòi những cách dùng mới cho đúng. Nói khác đi, từ vựng chẳng những có những cái mới ở bề mặt, mà còn có những cái mới ở chiều sâu của nó.
Nếu ta nói rằng nghĩa này hay nghĩa kia của một từ là nghĩa mới, ta phải luôn luôn đặt trong một mốc thời gian để so sánh. ví dụ, cách đây vài chục năm các nghĩa tương ứng của một số từ ngữ như sau là nghĩa mới:
Tổ chức = làm đám cưới Xây dựng = lấy vợ, lấy chồng Đặt vấn đề = ngỏ lời về ý định yêu đương
Khoảng mươi năm về trước, nghĩa của từ phường hội trong lối nói chủn ghĩa tập thể phường hội; hoặc lạnh trong chiến tranh lạnh; và cụm từ bật đèn xanh cũng ở trong tình trạng như vậy.
Thế, có nghĩa là: nghĩa mới của từ cũng có giới hạn tiêu cực và tích cực giống như từ mới.
Hiện nay trong tiếng Việt, con đường mở mang, tạo dựng nghĩa mới cho từ đang phát triển mạnh bên cạnh việc tạo các từ mới. Một trong những biểu hiện rõ của con đường đó là hiện tượng dùng một từ trong những tư cách từ loại khác nhau. Điều này có nghĩa lí do của nó. Khi chuyển đổi từ loại của từ như vậy, sự biến động trong cấu trúc nghĩa của chúng đã xảy ra và dẫn tới cả những biến động về bản chất từ vựng – ngữ pháp của chúng nữa. Ví dụ: băn khoăn – những băn khoăn; ảnh hưởng của chúng ta – những ảnh hưởng của phong trào cách mạng…
Tương tự như vậy, ta có hàng loạt trường hợp: những day dứt; có hai suy nghĩ nghiêm chỉnh; rất con người; tác phong công nghiệp; lối làm ăn còn rất tiểu nông…
Lẽ đương nhiên, ở đây phải luôn luôn lưu ý tới những cách dùng, những sáng tạo cá nhân. Rất có thể một tác giả, một cá nhân nào đó trong khi dử dụng ngôn từ có thể xây dựng, đưa ra một cách dùng mới, một sắc thái mới trong nội dung cho từ; và cách dùng đó, sắc thái mới đó rất độc đáo. Thế nhưng, nó có được phổ biến, cả xã hội chấp nhận và dùng theo hay không, lại là một vấn đề khác.
Ví dụ, chúng ta rất thú vị vơi lối nói ga bay (= sân bay); bầu mây ( = bầu trời); trả động ( = báo yên) của Nguyễn Tuân; nhưng chúng chỉ loé sáng lên trong tác phẩm của riêng ông mà thôi. Những trường hợp tương tự như vậy mới chỉ đem lại cho từ cái gọi là nghĩa không thường trực – kết quả của những cách dùng ngôn ngữ đậm màu sắc tu từ.
[1] Xem chương 14 – Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt.
Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 230–232.
Trở lại: Từ lịch sử