2. Khảo sát lỗi loại từ trong tiếng Việt (tiếp)
2.2. Dùng thừa loại từ
Tình hình cụ thể như sau (1) Dùng thừa ở cương vị bổ ngữ: 30; (2) dùng thừa ở cương vị chủ ngữ: 10; và (3) dùng thừa ở cương vị trạng ngữ: 5.
2.2.1. Dùng thừa ở cương vị bổ ngữ/chủ ngữ/trạng ngữ
Tuy dùng thừa ở cương vị bổ ngữ/ chủ ngữ/ trạng ngữ nhưng chúng tôi xét thấy đều là hiện tượng “thừa” và xuất phát từ một nguyên nhân chủ yếu, đó là hiện tượng vượt tuyến, vì vậy ở đây chúng tôi thấy chỉ cần đề cập đến những trường hợp dùng thừa ở cương vị bổ ngữ và trạng ngữ. Ví dụ:
(1) – Niary mua cái bút cho ai?
– Niary mua cái bút cho em trai. (Căm Pu Chia)(2) Trong gia đình tôi ai cũng thích nuôi con chó. (Úc)
(3) Khi chúng tôi học, chúng tôi thích dùng quyển sách. Chúng tôi thích hơn nói chuyện nhiều. (Mĩ)
(4) Giá quyển sách đắt gấp 2 so với giá quyển sách vào tháng 2 năm nay. (Đức)
(5) Tôi đã mua quả cà chua, quả dưa chuột. (Nhật)
(6) Ở chợ có nhiều người bán quả chuối, quả dừa, quả vú sữa, quả xoài. (Hung)
Ở 6 ví dụ trên người học đã dùng thừa “loại từ” ở cương vị bổ ngữ. Người Việt dùng “loại từ” khi muốn tính toán, khi muốn nói về một sự vật cụ thể, khi đã “trừu xuất” sự vật đó khỏi “giống loài chung” (danh từ khối).
Xét thêm hội thoại sau:
a – Anh đi chợ làm gì?
b – Tôi đi chợ mua cá.
c – Anh mua mấy con?
d – Tôi mua 3 con.
Ta thấy ở câu b, tiếng Việt không dùng loại từ vì “cá” ở trường hợp này là chỉ giống loài chung, không chỉ một con cá hay một số lượng cá cụ thể nào. Ở câu c, tiếng Việt lại bắt buộc phải dùng loại từ “con” vì chính loại từ “con” này đã trừu xuất “cá” ra khỏi giống loài chung, trở thành những thực thể cụ thể, có thể tính toán được (3 con).
Trở lại 6 ví dụ trên, điều người học cần nói lại là “giống loài” chung chứ không phải là sự tính toán hoặc “trừu xuất” ra những sự vật cụ thể, nhưng người học sử dụng “loại từ” , tức là người học đã áp dụng sai quy tắc “dùng loại từ” vào chỗ không dùng. Đây là sự vượt tuyến từ những ví dụ, những câu nói đã trở thành ấn tượng, “đây là con mèo, kia là quyển sách” từ những buổi học đầu tiên (mà thực ra đó cũng là những câu không tự nhiên của tiếng Việt bởi người Việt thường nói: cái gì kia? cái bút; con gì đây? con mèo). Ở ví dụ (1) nếu ta chữa lại:
“– Niary mua bút cho ai?
– Niary mua bút cho em trai”
thì câu dĩ nhiên là đúng hơn, tự nhiên hơn nhưng người học lại dùng “cái bút” nên câu trở thành không chuẩn. Bởi vì khi nói “cái bút” tức là phải nói đến sự vật cụ thể, đã được trừu xuất ra khỏi “giống loài” chung với một sự “phân lập trong không gian” (cách nói của Cao Xuân Hạo , 1999). Trong khi đó người hỏi chỉ có mục đích là “mua bút”, “bút” nói chung trong sự đối lập với những sự vật khác “mua giấy, mua áo, mua sách?…”. Còn nếu như cho rằng người học đang muốn nói về một (hoặc nhiều – khi đã được lượng hoá bằng “những”, “các”) thì lúc đó lại phải có định ngữ hạn định, ví dụ: cái bút này; cái bút bi xanh ấy…
Hãy xét tiếp ví dụ (2), chúng ta hiểu rằng người nói muốn chỉ một giống loài cụ thể nhưng không phải là một sự vật cụ thể “chó” trong sự phân biệt với “vật” không phải là “chó” như “mèo, gà, vịt…”. Cũng như ví dụ (1) người học đã nhầm “con chó” với “chó”. Trong khi lẽ ra phải nói là “nuôi chó” thì người học lại nói là “nuôi con chó”. Lí do ở đây cũng là do hiện tượng vượt tuyến. Trong đầu óc của người học tại thời điểm đó “con chó” tức là một “loài” và người học có thể tin rằng mình đã chọn được “loại từ” “con” đúng với tri thức có sẵn “Con + động vật”, “Cái + đồ vật”. Người học đã không phân biệt được trường hợp cụ thể được “phân lập trong không gian” với trường hợp nói chung, không phân lập trong không gian, chỉ giống loài. Tất cả các ví dụ dùng thừa loại từ chúng tôi đã dẫn 3,4, 5,6 đều xuất phát từ lí do trên.
Xét tiếp 2 ví dụ sau:
(1) Chúng tôi rời Tokyo lúc 10 giờ đêm bằng chiếc thuyền và đến đấy lúc 4 giờ sáng. (Nhật)
(2) Một hôm chúng em đã đi bằng con thuyền trên sông Hương để thăm chùa Thiên Mụ. (Tiệp).
Mặc dù ở 2 ví dụ này, người học dùng loại từ ở cương vị trạng ngữ và nếu không nằm trong câu thì ta thấy hai loại từ “chiếc”, “con” đều có thể được dùng với “thuyền”, và kể ra biết chọn “chiếc” hoặc “con” tức là cũng phải công nhận một điều là người học đã có một sự lựa chọn đầy suy nghĩ. Tuy nhiên người học đã dùng thừa “loại từ” bởi vì khi người học nói “rời Tokyo bằng…/ đi bằng…” tức là nói tới phương tiện, trong sự phân biệt về các loại phương tiện với nhau “thuyền”, “tàu”, “nhà”… chứ không phải nhằm một cái thuyền, một cái tàu cụ thể nào. Người học đáng lẽ nói “rời Tokyo bằng thuyền”/”đi bằng thuyền” thì lại dùng “bằng chiếc thuyền”/”bằng con thuyền” chính là vì tri thức có trước, đã được học về “loại từ + danh từ” được áp dụng ra ngoài phạm vi của nó.
2.2.2. Một số trường hợp khác
(1) Một điều ấn tượng khác của Hà Nội là các hồ
(2) Tôi đã thấy nhiều bức pho tượng ở Angkowat.
Ở ví dụ (1) ta thấy “điều” là một danh từ đơn vị thường tạo nên cấu trúc danh hoá hoặc được dùng độc lập: điều xúc động; điều sung sướng; điều hạnh phúc; điều suy nghĩ; điều này; một điều. “Ấn tượng” là một danh từ hơn nữa là một danh từ đơn vị nên có thể kết hợp trực tiếp với yếu tố lượng hoá, vì vậy không cần “điều”- một yếu tố danh hoá ở trước nữa. Ở ví dụ (2) người học đã nhầm “pho tượng” là một danh từ nên thêm loại từ “bức”vào trước. Trong khi người học chỉ có một sự lựa chọn hoặc “bức” hoặc “pho”.
Trở lại: