Như vậy, âm vị là một cấu trúc phức tạp. Để nhận thức ra được một âm vị, người ta phải tìm ra những đối lập có ích trong một ngôn ngữ. Sự gạn lọc lấy những phần đồng nhất và khác biệt cho đến tận kích thước cuối cùng của nét khu biệt. Không thể xác định được một âm vị mà không có ít nhất một sự đối lập của hai âm vị trở lên. Như vậy, âm vị là kết quả của các quan hệ: Quan hệ của âm vị này với âm vị khác trong hệ thống và quan hệ của âm vị với những thành tố cấu tạo nên nó theo nguyên tắc trục dọc. Vì các nét khu biệt, trong một khuôn khổ thời gian vô cùng nhỏ, được tổ hợp lại với nhau để tạo nên các âm vị nên sự xuất hiện trước sau theo thời tính của những nét này trong chuỗi được coi bằng 0. Nghĩa là, âm vị là kết quả đồng thời của các nét xuất hiện trong một khoảnh khắc thời gian vô cùng nhỏ. Chính do việc xuất hiện đồng thời như vậy mà âm vị được coi là đồng chất từ đầu đến cuối phát âm (homogenneous). Tuy nhiên, trong thực tế, không phải hoàn toàn đúng như vậy. Ví dụ như các nguyên âm đôi có điểm khởi đầu và điểm kết thúc là hoàn toàn khác nhau về cấu trúc formant. Cụ thể: Nguyên âm đôi /ie/ trong tiếng Việt có khởi đầu là một formant của [i] và điểm kết thúc là một formant của [ε]. Cũng như các âm tắc xát trong tiếng Anh như /tS/ và /dz/ có điểm khởi đầu là một nét tắc và điểm kết thúc là một nét xát. Nói cách khác, sở dĩ chúng ta đồng nhất hoá được một chùm các nét khu biệt vào trong một âm vị là bởi vì chúng ta căn cứ trên chức năng của các âm này: chúng là đơn nhất về mặt chức năng chứ không phải là dựa trên sự đơn nhất về mặt cấu trúc. Các âm như nguyên âm đôi hoặc các phụ âm tắc xát, hoặc bật hơi là những âm thể dị chất về cấu trúc (hetorogenneous) nhưng đồng chất về chức năng. Chẳng hạn như nguyên âm đôi /ie/ của tiếng Việt, mặc dù có cấu trúc formant phức tạp và dị chất nhưng cả cấu trúc phức tạp đó chỉ có thể xuất hiện ở đỉnh âm tiết, trong vần, tương tự như một nguyên âm đơn có thể xuất hiện trong vị trí này. Ví dụ như: /i/, /e/, /a/… Như vậy, một âm vị, ngoài chức năng khu biệt còn có chức năng cấu tạo vỏ từ hay còn gọi là chức năng phân bố trong vỏ từ. Khi một âm đồng nhất về mặt chức năng (khu biệt nghĩa và tạo nên phân bố trong một vỏ từ giống như các âm vị khác) thì chúng được đồng nhất với các đơn vị khác và chúng tạo thành một đơn vị âm vị học mặc dù cấu trúc có thể kềnh càng và phức tạp.
Mỗi âm vị đều có nội dung âm vị học của nó. Nội dung này không được xác lập bằng các đặc trưng thực thể của một âm vị mà được xác lập thông qua các đối lập chức năng. Khi nói về chức năng của một âm vị là nói về sự đóng góp cụ thể của âm vị đó trong hệ thống âm thanh cụ thể của ngôn ngữ. Những nhãn mác của một âm vị, suy cho cùng, chỉ là những ẩn dụ nào đó của một chức năng được ngụ trong một đặc điểm thể nhất định mà thôi. Ví dụ như: Sự khu biệt giữa một âm /i/ và âm /e/ trong tiếng Việt là có chức năng âm vị học. Chẳng hạn: "đi" và "đê" là khác nhau về mặt nghĩa từ vựng, do /i/ khác /e/.
/i/ = | +NAT + trước +đơn |
/e/ = | +NAT + trước +đơn |
đồng nhất | |||||||
+ hẹp | + trung bình |
Tuy nhiên, giữa hẹp và trung bình chỉ là một ẩn dụ (metaphore) về mặt chức năng của một đặc điểm thực thể là: cấu trúc formant của hai nguyên âm này là khác nhau. Cụ thể: Cấu trúc formant của nguyên âm /i/ là loãng (diffuse) hơn so với cấu trúc formant của nguyên âm /e/.
F2 F1 |
_______ loãng _______ |
F2 F1 |
_______ trung bình _______ |
F2 F1 |
_______ đặc _______ |
||||||
/i/ | /e/ | /ε/ |
Nhưng khoảng cách giữa F1 và F2 lại có sự bộc lộ ra bên ngoài là khác nhau. Ngữ âm-âm vị học cổ điển cho rằng: khi độ mở của miệng bị hẹp lại thì 2 formant lại cách xa nhau. Còn khi độ mở của miêng rộng nhất thì khoảng cách giữa 2 formant là gần nhau nhất, âm có năng lượng lớn nhất, phổ của nguyên âm là đặc (Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt).
Tuy nhiên, nhãn này là một nhãn rất chủ quan, vì, trong thực tế, người ta có thể cắn chặt răng với một cái bút để giữ nguyên khẩu độ, mà vẫn phát âm một cách bình thường. Tóm lại, đó là một chứng cứ không thuyết phục mà chỉ là một nét kéo theo của một nét âm vị học khác mà thôi. Nét âm vị học khác đó chính độ nâng của lưỡi trong khoang miệng. Đối với /i/, đầu lưỡi phải nâng cao về phía ngạc. Đối với /e/ hoặc /ε/ thì phải hạ dần lưỡi về phía hàm dưới. Việc nâng lưỡi lên hoặc hạ lưỡi xuống chẳng qua là những thao tác để thu hẹp hoặc nới rộng không gian phát âm của một nguyên âm mà thôi. Đó chính là sự thu hẹp một cộng minh trường (resonant). Khi thu hẹp cộng minh trường thì âm sẽ bị cao lên. Còn khi nới rộng cộng minh trường thì âm sẽ trở nên trầm, mạnh vì cộng minh trường rộng thì cường độ được khuếch đại lên nhiều lần.
Vì vậy, không nên gán một nét âm vị học "đáng giá" ấy cho khẩu độ mà phải gán cho vị trí của lưỡi mới chính xác, ta có:
/i/ = | +NAT + trước +đơn |
/e/ = | +NAT + trước +đơn |
/ε/ = | +NAT + trước +đơn |
đồng nhất | ||||||||||
+ cao | trung bình | + thấp | → | độ nâng |
Cũng tương tự như vậy là mối quan hệ giữa [tròn môi] và [sau]. Ngữ âm-âm vị học cổ điển (Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt) quan niệm rằng các âm như /u/, /o/, // thậm chí cả /uo/ đều có nét [+tròn môi]. Tuy nhiên, trong thực tế, nếu gốc lưỡi đã lùi về sau, về phía họng, thì môi tự nhiên co lại, trở nên tròn. Như vậy, không có nguyên âm [+sau] chính danh nào lại không tròn môi. [+tròn môi] chẳng qua chỉ là một nét kéo theo của nét [+sau] mà thôi. Ta có:
/i/ = | + NAT + trước + đơn + cao |
// = | + NAT + giữa + đơn + cao |
/a/ = | + NAT + sau + đơn + cao |
Qua hai ví dụ trên về trường hợp nguyên âm tiếng Việt, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
– Mỗi một âm có nhiều đặc tính thực thể, do cấu trúc vật lí của chúng quy định;
– Những nét này, khi được hành chức trong một hệ thống âm vị được gọi là các nét khu biệt âm vị học. Chúng là những nét cần yếu âm vị học (relevant features).
Đi kèm với những nét cần yếu âm vị học này là những nét ngữ âm kéo theo, hoặc làm đầy nội dung âm vị học như là những tá dược làm đầy một viên thuốc. Những nét đó được gọi là những nét dư âm vị học (irrelevant/redundant features).
Trở lại: ví dụ trên, đối với nguyên âm tiếng Việt, các nét [+cao]; [+trung bình], [+thấp] là những nét cần yếu âm vị học; còn những nét như [+hẹp], [+trung bình], [+rộng] là những nét dư âm vị học v.v…
Tuy nhiên, người ta không thể gạt đi được các nét dư âm vị học trong nội dung âm vị học của một âm vị. Nó đi kèm các nét khu biệt là không có cách nào bị loại ra khỏi. Mặt khác, để đảm bảo tính tự nhiên âm vị học, nhất thiết phải có những nét không cần yếu này. Những người nước ngoài thường là những người vì quá chú trọng đến các nét khu biệt âm vị học mà quên đi hoặc không có khả năng thể hiện các các nét dư. Đó là nguyên nhân tạo nên giọng nước ngoài (foreign accent) trong khi phát âm. Những giọng bản ngữ là những giọng mà trong sự thể hiện một cách tự nhiên có sự cân đối nhất định giữa nét khu biệt và nét dư. Có được sự bộc lộ các nét dư một cách tự nhiên mà không cần cố gắng như vậy là do người bản ngữ ngay từ khi mới lọt lòng đã được đắm mình trong một môi trường giao tiếp tự nhiên của cộng đồng, tạo nên ngữ năng tự nhiên của người bản ngữ.
Đối với âm vị học, các nét dư rất ít khi được tính vào trong nội dung âm vị học của một âm vị. Đó là do mục đích của âm vị học là một khoa học về khu biệt âm thanh của một hệ thống ngôn ngữ cụ thể. Mục đích này hoàn toàn khác với mục đích của bộ môn phương pháp tiếng – bộ môn dạy về kĩ năng nói ngôn ngữ thứ nhất hoặc ngôn ngữ thứ hai.