• Bỏ qua primary navigation
  • Skip to main content
  • Bỏ qua primary sidebar
  • Bỏ qua footer

ngonngu.net

Ngôn ngữ học và Tiếng Việt

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ
Bạn đang ở:Trang chủ / Tiếng Việt / Lịch sử / Giai đoạn Việt-Mường cổ

Giai đoạn Việt-Mường cổ

19/04/2007

ngonngu.net
19/04/2007Chuyên mục:
  • Lịch sử

1- Tính chất và thời gian tương đối

2- Những đặc điểm chính

Quy luật 1 ::: Quy luật 2 ::: Quy luật 3

3.1. Tính chất và thời gian tương đối

– Thời gian: ứng vào quãng sau thế kỉ 1–2 sau công nguyên và kéo dài đến thế kỉ 8–9, thậm chí là có thể đến thế kỉ 10. Về mặt lịch sử, giai đoạn này tương ứng với thời kì Bắc thuộc. Điều kiện lịch sử này là nhân tố ngoài ngôn ngữ cho chúng ta biết rằng đây là giai đoạn tiếng Việt tiếp xúc với tiếng Hán nhiều nhất trên cả hai bình diện: tự nguyện và ép buộc.

– Vào thời kì này, trên vùng địa lí của cả khối ngôn ngữ tiền Việt-Mường đã có sự phân hoá, sự phân hoá này dẫn đến kết quả là:

+ Một bộ phận tách biệt trở thành các ngôn ngữ hiện nay như kiểu tiếng Arem, Rục, Mã Liềng… (ngôn ngữ song tiết);

+ Một bộ phận có tiếp xúc với tiếng Hán trở thành các ngôn ngữ Việt-Mường cổ (ngôn ngữ đơn tiết).

Sự phân chia về mặt ngôn ngữ này cũng tương ứng với sự phân chia về mặt địa lí:

> Việt-Mường cổ ở phía Bắc và khu vực đồng bằng;

> Phần còn lại ở phía Nam và khu vực miền núi.

– Trong suốt gần 1000 năm Bắc thuộc, việc tiếp xúc giữa tiếng Việt và văn hoá Việt bản địa với tiếng Hán và văn hoá Hán ở địa bàn tương ứng với lãnh thổ Đại Việt sau này là khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian, địa lí và thậm chí là cả về phương thức tiếp xúc.

3.2. Những đặc điểm chính về ngôn ngữ

Như đã trình bày ở trên, tiếng Việt-Mường cổ đã có sự tiếp xúc đặc biệt với tiếng Hán. Sự tiếp xúc này dẫn đến 2 hệ quả:

– Thứ nhất, vốn từ vựng của tiếng Việt lúc này đã có sự vay mượn từ tiếng Hán. Như vậy, đến giai đoạn này, tiếng Việt đã tiếp xúc với các họ ngôn ngữ: Nam Đảo – Thái Kadai – Hán Tạng. Và có thể xác định thành phần (về mặt nguồn gốc) từ vựng tiếng Việt giai đoạn này như sau:

+ Cội nguồn: họ Nam Á và nhánh Mon-Khmer;

+ Vay mượn: Nam Đảo – Thái Kadai – Hán-Tạng

– Thứ hai, tiếng Việt ở giai đoạn Việt-Mường cổ đã bắt đầu một quá trình đơn tiết hoá. Chính vì hiện tượng này mà bộ phận tiền Việt-Mường nào chịu tác động nhiều thì sẽ phát triển theo xu hướng của Việt-Mường cổ; còn bộ phận nào không chịu ảnh hưởng của tác động này thì sẽ lưu lại và hiện nay trở thành hiện thân của bộ phận tiền Việt-Mường xưa kia.

3.2.a. Sự xuất hiện thanh điệu trong tiếng Việt-Mường cổ (quy luật 1)

– Hiện tượng thanh điệu xuất hiện sớm nhất ở tiếng Hán. Nhưng theo một chứng minh (của Pháp) thì ở thời tối cổ tiếng Hán cũng là một ngôn ngữ không thanh điệu, mà hiện tượng này chỉ mới bắt đầu vào khoảng 4–5 ngàn năm trước đây. Từ tiếng Hán, hiện tượng thanh điệu lan truyền sang họ Thái; sau đó là đến một bộ phận Nam Á và hiện nay ở một số bộ phận nhỏ của họ Nam Đảo cũng có hiện tượng thanh điệu. 

Như vậy, về sự tồn tại và mức độ phổ biến của thanh điệu ở các họ ngôn ngữ là khác
nhau:

+ Họ Hán-Tạng: rõ ràng;

+ Họ Thái-Kadai: hoàn chỉnh;

+ Họ Nam Á (chia thành hai bộ phận):

^ có thanh điệu,

^ không có thanh điệu;

+ Họ Nam Đảo: 

^ về đại thể: không có thanh điệu,

^ ở một số ít: bắt đầu xuất hiện.

Như vậy, có thể nói thanh điệu là một hiện tượng có tính lan truyền.

– Trở lại với các ngôn ngữ tiền Việt-Mường. Vào thời kì này, tiếng tiền Việt-Mường đã trở thành tiếng Việt-Mường cổ và là một ngôn ngữ có 3 thanh điệu. Lí do cho sự hình thành 3 thanh đó là kết quả của sự thay đổi lại cách sắp xếp của âm cuối sau âm tiết. Cụ thể là việc các âm cuối xát và tắc bị
rụng đi:

+ Âm cuối mở: ngang;

+ Âm cuối xát: huyền;

+ Âm cuối tắc: sắc.

(X. Sơ đồ của Haudricourt về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt)

3.2.b. Sự thể hiện của tính chất đơn tiết: quy luật đơn tiết hoá (quy luật 2)

Vào thời kì này, tính chất đơn tiết được thể hiện phần nhiều dưới dạng tổ hợp phụ âm (CC). Sơ đồ âm tiết có thể được thể hiện như sau:

(1) CvCVC ——- (2) CCVC/ T  (T: thanh điệu)

Trong đó, mô hình (2) tồn tại kéo dài tới tận thế kỉ 17. Ví dụ (theo cách ghi của Từ điển Việt–Bồ–La của A. de Rhodes, năm 1651):

+ mlầm ("nhầm");

+ blời ("trời", "giời", "lời")…

3.2.c. Các biến đổi ngữ âm khác

Hệ thống ngữ âm giai đoạn Việt-Mường cổ, xét về cơ bản, giống với hệ thống ngữ âm giai đoạn trước. Tuy nhiên, vào giai đoạn này cũng có một vài thay đổi:

– Tiếng Việt ở giai đoạn Việt-Mường cổ không còn lưu giữ 2 loạt âm cuối tương ứng với  ? ? ? ? ? ? âm tắc họng (*?) ? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ?  và âm xát (*s, *h).

? ? ? ? ? ? ? ? ? ? ?

– Nếu như ở giai đoạn tiền Việt-Mường đã có tổ hợp âm đầu nằm ở vị trí âm đầu của âm tiết chính (trong từ song tiết) hay là âm đầu của từ đơn tiết thì vào giai đoạn này đã xuất hiện nhiều tổ hợp phụ âm đầu hơn. Và trong tình hình nghiên cứu hiện nay, người ta cho rằng có tới 5 tổ hợp âm đầu của âm tiết trong giai đoạn Việt-Mường cổ. Các tổ hợp này thường là sự kết hợp giữa âm tắc với âm bên hoặc âm rung.

– Vào thời kì này đã bắt đầu xuất hiện các phụ âm đầu xát do hệ quả của quá trình đơn tiết hoá. Tuy hiện nay trong giới nghiên cứu lịch sử tiếng Việt vẫn còn tranh luận về tính chất cũng như thời gian của quá trình này nhưng mọi người đều xác nhận vào giai đoạn Việt-Mường cổ, tiếng Việt đã xuất hiện quy luật biến đổi ngữ âm gọi là quy luật xát hoá các phụ âm tắc giữa (quy luật 3).

Nhận xét:

Nếu như ở giai đoạn tiền Việt-Mường các ngôn ngữ hiện nay được xếp vào nhóm Việt-Mường đang là một khối thống nhất thì ở giai đoạn này đã có một sự phân hoá. Sự phân hoá này làm tách biệt thành một bên là những ngôn ngữ tiền Việt-Mường còn lưu giữ lại đến ngày nay và một bên là các ngôn ngữ Việt-Mường cổ để nó tiếp tục phát triển theo một hướng khác.


Trở lại:

  • Giai đoạn tiền Việt-Mường

Đọc tiếp:

  • Giai đoạn Việt-Mường chung

Chia sẻ:

  • Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới) Facebook
  • Nhấp để chia sẻ trên X (Mở trong cửa sổ mới) X
  • Nhấp để chia sẻ trên WhatsApp (Mở trong cửa sổ mới) WhatsApp
  • Bấm để chia sẻ lên LinkedIn (Mở trong cửa sổ mới) LinkedIn

Điều hướng bài viết

Bài trước Giai đoạn Việt-Mường chung
Bài tiếp theo Nhóm ngôn ngữ Việt-Mường

Sidebar chính

Mục lục

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ

Footer

Đăng kí theo dõi

Nhập địa chỉ email của bạn để nhận thông báo khi có bài mới.

Liên kết

  • Nhóm Facebook
  • Dự án S – Công cụ tiếng Việt
  • Paratime Studio

Tìm kiếm

Liên hệ và Hỗ trợ

  • Giới thiệu
  • Liên hệ

© 2025 ngonngu.net