• Bỏ qua primary navigation
  • Skip to main content
  • Bỏ qua primary sidebar
  • Bỏ qua footer

ngonngu.net

Ngôn ngữ học và Tiếng Việt

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ
Bạn đang ở:Trang chủ / Ngôn ngữ học / Ngữ âm / Chữ viết / Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu: Các nguyên tắc chung cho việc đặt dấu thanh điệu

Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu: Các nguyên tắc chung cho việc đặt dấu thanh điệu

16/09/2006

ngonngu.net
16/09/200619/06/2022Chuyên mục:
  • Chữ viết
Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu và về việc sử dụng “i/y”
(Bước đầu áp dụng cho các văn bản số tiếng Việt)

1.1. Các nguyên tắc chung cho việc đặt dấu thanh điệu

1.1.1. Các mô hình vần trong tiếng Việt

Có thể nhận thấy ngay là các dấu thanh điệu hiện nay đều được đặt hoặc là ở vị trí âm chính, hoặc là ở vị trí âm đệm. Nghĩa là nó nằm ở trong phạm vi phần vần. Xét theo giải pháp âm vị học của hệ thống chữ quốc ngữ, chúng ta có mô hình chung của vần tiếng Việt:

ÂM ĐỆM + NGUYÊN ÂM CHÍNH + ÂM CUỐI

Và các biến thể của mô hình này là:

x1x
  1. Âm đệm zero + Nguyên âm chính + Âm cuối /zero/

    (Chúng tôi gọi tắt là mô hình 010)

    Ví dụ: a (ta), ô (tô), i (ti)… (12 vần, 1162 âm tiết).
  2. Âm đệm zero + Nguyên âm chính + Âm cuối không /zero/

    (mô hình 011)

    Ví dụ: ac (tác), ôc (tốc), ich (tích)… (110 vần, 4874 âm tiết).
  3. /W/ + Nguyên âm chính + Âm cuối /zero/

    (mô hình 110)

    Ví dụ: oa (toa), uy (tuy)… (6 vần, 152 âm tiết).
  4. /W/ + Nguyên âm chính + Âm cuối không /zero/

    (mô hình 111)

    Ví dụ: oac (toác), uyt (tuýt)… (38 vần, 463 âm tiết)

1.1.2. Mô hình một âm tiết tiếng Việt khi được biểu diễn bằng chữ quốc ngữ

Chữ quốc ngữ là chữ ghi âm, phản ánh tương đối chính xác cấu trúc âm tiết tiếng Việt. Về cơ bản, một âm tiết tiếng Việt khi được biểu diễn bằng chữ quốc ngữ sẽ có dạng tổng quát như sau:

(C) (C) (C) (w) V (v) (c) (c)

Trong đó:

  • C là chữ cái trong tổ hợp chữ cái biểu diễn cho âm đầu:
    • gồm 1 chữ cái (C): b, c , d, đ, g, k, l, m, n, q, r, s, t, v, x
    • gồm 2 chữ cái (CC): ch, gh, gi, ng, nh, ph, th, tr
    • gồm 3 chữ cái (CCC): ngh

    Như vậy, C ở vị trí thứ hai chỉ có thể là “h, i, r”; còn C ở vị trí thứ 3 duy nhất chỉ có thể là “h”.

  • w là chữ cái biểu diễn cho âm đệm, bao gồm “o” và “u”.
  • V và v là chữ cái biểu diễn cho âm chính. Bao gồm các tổ hợp sau:
    • một chữ cái (V): a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y
    • hai chữ cái (Vv): ia, iê, ya, yê, ua, uô, ưa, ươ
  • c là chữ cái biểu diễn cho âm cuối. Bao gồm các tổ hợp sau:
    • một chữ cái (c): c, i, m, n, o, p, t, u, y
    • hai chữ cái (cc): ch, ng, nh

Các thành phần được đặt trong dấu ngoặc đơn () là các thành phần có thể vắng mặt. Như vậy, về mặt lí thuyết thì âm tiết tiếng Việt có thể được biểu diễn bằng từ 1 đến 8 chữ cái, nhưng trên thực tế, con số tối đa là 7.

Dưới đây là các biến thể của mô hình trên (phân theo số lượng chữ cái có trong mô hình) và các ví dụ tương ứng:

Số lượng chữ cái Biến thể Ví dụ
1 V à, ớ
2 wV oà/òa, uế/úê
Vc án, ớn
Vv ỉa, ủa
CV tả, tớ
3 wVv –
CVv tỉa, tủa
CCV thả, thở
Vvc yến, ườn
Vcc áng, ậng
wVc oái, uất
CwV toà/tòa, tuế/túê
CVc tán, tợn
4 CCVv thìa, thủa
CCCV nghĩ, nghè
Vvcc yểng, ưởng
CVvc tiến, lượn
CCVc thán, thớt
CVcc táng, tầng
CwVv tuya, xuya
CCwV thoá/thóa, thuế/túê
wVvc uyên, uyển
wVcc oàng, uỵch
CwVc toại, luận
5 CCCVv nghía, nghĩa
CCVvc thiến, thưỡn
CCCVc nghìn, nghịt
CVvcc tiếng, tưởng
CCVcc tháng, thắng
CCwVv khuya
CCCwV –
wVvcc –
CwVvc tuyển, huyền
CwVcc toáng, đoảng
CCwVc khuỷu, thoái
6 CCCVvc nghiến, nghiện
CCVvcc thiềng, thường
CCCVcc nghĩnh, nghếch
CCCwVv –
CwVvcc –
CCwVvc thuyền, khuyến
CCwVcc khuỳnh, khoàng
7 CCVvcc nghiêng
CCwVVcc –
8 CCCwVvcc –

1.1.3. Nguyên tắc đặt dấu thanh trong hệ thống chữ quốc ngữ

Trong bài “Một ý kiến nhỏ về cách ghi dấu thanh trên văn bản tiếng Việt” [6], tác giả Trần Thị Thìn nêu ra ba nguyên tắc đặt dấu. Đó là:

  1. Nguyên tắc biểu trưng ngữ âm: “vị trí của các dấu thanh thường được đặt ở trên hoặc dưới yếu tố đỉnh âm tiết, tức là nguyên âm hay âm hạt nhân. Sự định vị đó chính là xuất phát từ nguyên tắc biểu trưng ngữ âm, bởi lẽ nguyên âm là yếu tố mang những đặc trưng ngữ âm cơ bản của thanh điệu trong âm tiết. Ví dụ: gà, ngã, đặc, tính…”.
  2. Nguyên tắc hợp lí: Tác giả so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Mông, theo đó, do âm tiết tiếng Mông hầu như chỉ có cấu trúc mở nên thanh điệu được biểu diễn bằng chữ cái và được đặt ở cuối âm tiết. Còn tiếng Việt, ngược lại, do âm tiết tồn tại ở hai cấu trúc: mở và không mở, nên để tránh gây nhầm lẫn với âm cuối, chữ quốc ngữ sử dụng dấu phụ thay cho chữ cái. (Thực ra, nếu sử dụng các chữ cái để biểu diễn thanh điệu theo kiểu gõ telex: F – huyền, X – ngã, R – hỏi, S – sắc, J – nặng thì sẽ không gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, khoá luận này không bàn tới việc cải tiến chữ viết, hơn nữa, việc thay đổi lớn như vậy là không đem lại gì ngoài việc gây thêm phiền phức mà thôi).
  3. Nguyên tắc thẩm mĩ: Đây là nguyên tắc đặt dấu sao cho con chữ trông cân đối, thuận mắt. Cũng chính sử dụng tiêu chuẩn cân đối và thuận mắt này mà tuỳ vào từng (loại) trường hợp cụ thể mà có cách cách bỏ dấu khác nhau:

“…

– Hoặc thuần tuý dựa vào trật tự của các con chữ, đánh dấu vào chữ cái ở giữa của các âm tiết kiểu:

ÂĐ + NÂ đôi. Ví dụ: thìa, lựa…

– Hoặc theo cả hai nguyên tắc cân đối và biểu trưng ngữ âm, dấu thanh được đánh ở nguyên âm trong những âm tiết kiểu:

ÂĐ + NÂ đơn + ÂC. Ví dụ: nhẵn, tép, sỏi…

– Hoặc dấu thanh được đánh ở con chữ thứ 2 trong tổ hợp chữ cái ghi nguyên âm đôi trong các âm tiết không mở:

ÂĐ + NÂ đôi + ÂC. Ví dụ: thiền, lưỡi, cuống…

– Hoặc dấu thanh được đánh ở nguyên âm trong các âm tiết bắt đầu bằng âm đệm:

Bán NÂ + NÂ đơn + ÂC. Ví dụ: uế, oản, uất…

…”

* Tiên đề

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, trong chữ quốc ngữ hiện nay, dấu phụ biểu diễn thanh điệu đa phần được đặt ở vị trí chữ cái biểu diễn nguyên âm chính, ngoài ra còn có một số trường hợp đặt ở vị trí chữ cái biểu diễn âm đệm. Các trường hợp đặt ở âm đầu và âm cuối là những lỗi kĩ thuật.

Ngoài ra, có một điều đáng chú ý, có một số chữ cái thường được dùng để biểu diễn nguyên âm (“i, o, u, y”) lại nằm trong thành phần không phải để biểu diễn cho âm chính. Đây là một “kẽ hở” của chữ quốc ngữ, tạo điều kiện phát sinh sự nhầm lẫn về vị trí dấu thanh điệu ở các âm tiết có âm đầu được biểu diễn bằng tổ hợp “gi”, hoặc các âm tiết [+tròn môi] (“o, u”) hoặc các âm tiết có bán nguyên âm cuối (“o, u, i, y”).

Chia sẻ:

  • Nhấn vào chia sẻ trên Facebook (Mở trong cửa sổ mới) Facebook
  • Nhấp để chia sẻ trên X (Mở trong cửa sổ mới) X
  • Nhấp để chia sẻ trên WhatsApp (Mở trong cửa sổ mới) WhatsApp
  • Bấm để chia sẻ lên LinkedIn (Mở trong cửa sổ mới) LinkedIn

Điều hướng bài viết

Bài trước Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu và về việc sử dụng “i/y”: Phần mở đầu
Bài tiếp theo Thống nhất vị trí đặt dấu thanh điệu: Thực trạng về vị trí đặt dấu thanh điệu

Sidebar chính

Mục lục

  • Ngôn ngữ học
    • Các vấn đề chung
      • Đại cương
      • Đối chiếu
      • So sánh lịch sử
    • Từ vựng
    • Ngữ âm
      • Ngữ âm học
      • Âm vị học
      • Chữ viết
    • Ngữ pháp
    • Ngữ nghĩa học
    • Ngữ dụng học
    • Ngôn ngữ học xã hội
    • Khuynh hướng
  • Tiếng Việt
    • Lịch sử
    • Phương ngữ
    • Hiện tại
  • Chuyên đề
    • Tiếng Việt & CNTT
    • Tài liệu tham khảo
    • Thông tin tổng hợp
  • Ngày này năm xưa
  • Dự án S
  • Liên hệ & Hỗ trợ

Footer

Đăng kí theo dõi

Nhập địa chỉ email của bạn để nhận thông báo khi có bài mới.

Liên kết

  • Nhóm Facebook
  • Dự án S – Công cụ tiếng Việt
  • Paratime Studio

Tìm kiếm

Liên hệ và Hỗ trợ

  • Giới thiệu
  • Liên hệ

© 2025 ngonngu.net