• Chuẩn mực hoá ngôn ngữ và văn hoá mới, con người mới • Tiếp nhận từ của ngoại ngữ trong quá trình tiếp xúc ngôn ngữ • Nhu cầu mượn từ • Đồng hoá từ mượn • Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết • Nhất quán và không nhất quán
Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
Vấn đề này rất rộng, nếu bàn tới các khác nhau giữa nói và viết ở tất cả các mặt; nên ở đây chỉ trình bày những điều có liên quan tới cải tiếng chữ viết và chuẩn mực hoá chính tả.
Ngày xưa, trong truyền thống ngữ văn học thì văn bản là đối tượng nghiên cứu, và lời nói, tức là ngôn ngữ nói, không thể coi là có giá trị để nghiên cứu như ngôn ngữ viết được. Quan niệm ấy có lí do: ngôn ngữ viết tức là ngôn ngữ đã thành văn chương, thành những tác phẩm biểu hiện cái hay, cái đẹp, cái tinh hoa đã có giá trị định hình của một ngôn ngữ; ngôn ngữ thì biến dộng, cho nên rất dễ trở thành “pha tạp”, “hư hỏng”. Vì thế, trước đây, sự chuẩn mực hoá cũng dựa trên ngôn ngữ viết để quy định cái đúng, cái sai. Như vậy, mặt chữ có uy thế hơn hẳn mặt âm. Vả lại, trong đời sống trước đây thì ở đâu sách cũng là công cụ chủ yếu của sự truyền đạt tư tưởng, văn hoá. Vai trò quan trọng như vậy của sách cũng là vai trò quan trọng của mặt chữ.
Sự chuyển biến lớn trong quan niệm về giá trị của mặt chữ đã xảy ra với ngôn ngữ học hiện đại: không, ngôn ngữ nói mới là cái cơ bản, và mặt chữ chỉ để biển hiện mặt âm mà thôi. Mặc chữ còn nguy hiểm ở chỗ nó gây ra nhận thức sai lạc về ngôn ngữ. Quả nhiêm, trong phạm vi nghiên cứu ngôn ngữ, đặc biệt về mặt ngữ âm lịch sử, nếu lấy mặt chữ làm căn cứ thì sai lệch là khó tránh, và cũng khó xử lí, theo yêu cầu chuẩn mực hoá, đối với những biến đổi ngữ âm đang diễn ra.
Trong đời sống xã hội hiện nay, ngôn ngữ nói lại càng có vai trò quan trọng hơn. Không phải chỉ có sách, có báo, mà còn có sân khấu, điện ảnh; không phải chỉ gặp nhau mới nói được với nhau được mà còn nói qua các thứ máy móc, truyền âm, truyền hình; không phải chỉ viết để truyền đạt tư tưởng mà còn phải nói, phải vận động quần chúng nhân dân bằng lời nói trực tiếp.
Tuy vậy, những sự thay đổi như vừa kể không thể dẫn tới kết luận rằng ưu thế đã hoàn toàn thuộc về ngôn ngữ nói rồi, và xử lí mọi chuẩn mực hoá đều phải dựa vào ưu thế đó.
Kết luận đúng đắn, được thừa nhận rộng rãi hiện nay là mặc dù không có một thứ chữ viết nào hoàn toàn độc lập với mặc ngữ âm mà từ đó sinh ra, nhưng vẫn phải thấy ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói, mặt chữ và mặt âm, có đặc điểm khác nhau, chức năng khác nhau, và do đó, sự tồn tại cùng sự hành chức và phát triển không giống nhau.
Trong chất liệu hình thức của ngôn ngữ, có thể phân biệt chất liệu âm và chất liệu chữ. Xét về mặt vật chất của tín hiệu, thì chất liệu âm được tiếp nhận bằng tai là rất tiện, so với những loại chất liệu khác, trong đó có chất liệu chữ, phải tiếp nhận bằng mắt. Nhưng chất liệu âm vẫn bất tiện là sau khi đi được phát ra, thì không có ai hay có ai nghe, nó cũng tan biến. “Lời nói gió bay”! Trái lại, chất liệu chữ thì bền hơn nhiều. Cho nên, viết ra, tức là dùng chữ thì về mục đích là khác với dùng âm, tức là nói ra. Một mục đích hết sức quan trọng của chữ, của ngôn ngữ viết là truyền lại những thông điệp cho tương lai, vì thế tuy chỉ là mặt hình hức, chữ viết cũng mang ý nghĩa di sản của những đời trước để lại cho những đời sau.
Mục đích cơ bản và khái quát ấy của chữ viết làm cho nó trở thành một thực thể được coi là tồn tại riêng, chứ không phải chỉ là cái chuyển thân tự mặt âm mà có. Thái độ quý trọng, chăm sóc đến chữ viết, chứ không phải quá tuỳ tiện với nó, cũng từ đó mà hình thành trong một xã hội có truyền thống văn hoá. Tuy vậy, trong thái độ ấy, có những màu sắc khác nhau và rõ ràng là có những màu sắc không thể nào nói khác hơn là sai lệch, ở nhà tu hành chỉ thấy chữ viết trên bản kinh linh thiêng, ở nhà học giả chỉ thấy chữ viết trên văn bản cổ điển, ở nhà pháp luật chung và nhà pháp luật ngôn ngữ chỉ thấy những quy chế đã ban hành và cần được giữ vững (có khi đó là quy chế của chính mình đã làm ra), và ở cả nhà nghệ sĩ có quá nhiều tưởng tượng và nghĩ ngợi kiểu Rim-bô về chữ viết… Thực tế là trong lịch sử vẫn có những dân tộc đã chấp nhận một sự li khai gian khổ với truyền thống và cương quyết tiến hành cải cách chữ viết. Dân tộc ta là một trường hợp như vậy. Và phải thừa nhận rằng đối với dân tộc ta, cũng như đối với những dân tộc đã cải cách chữ viết của mình theo chữ La tinh, sự kiện ấy đều có tác dụng hết sức quan trọng. Điều này cho thấy là còn phải nhìn tới mục đích thiết thực của chữ viết. Nhằm vào mục đích ấy là phải làm cho chữ viết trở thành một công cụ văn hoá dễ học, dễ dùng đối với quần chúng nhân dân. Sự La tinh hoá chữ viết của các dân tộc thuộc địa đã có một tác dụng dân chủ hoá, ngoài ý muốn của các vị giáo sĩ và các vị toàn quyền!
Nhìn lại lịch sử của “chữ quốc ngữ” ở nước ta, có thể thấy rằng nhân dân ta, sau một thời gian do dự, đã nhận ra cái lợi mà thứ chữ này có thể đem lại cho đất nước và đã chấp nhận nó. Quả nhiên, trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta trên các mặt chính trị, văn hoá, “chữ quốc ngữ” là một công cụ lợi hại, và đúng thế, thực là ngoài ý đồ của những người làm ra nó và khuyến khích dùng nó lúc đầu. Nhưng đối với nhân dân ta, vấn đề lại còn là làm cho nó trở thành một công cụ hoàn hảo hơn, có hiệu lực hơn. Cho nên, từ trước Cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương, một mặt, triệt để sử dụng và truyền bá chữ quốc ngữ; mặt khác, chuẩn bị cải tiến nó. Những cách viết như “kách mệnh” mà đồng chí Hồ Chí Minh đã viết là nhưng gợi ý về một nhiệm vụ chính trị và văn hoá mà nhân dân ta phải hoàn thành, vì lợi ích lâu dài, lớn lao của đất nước, của những thế hệ mai sau. “Chữ quốc ngữ” cần được cải tiến là vì thế; đó là nhiệm vụ mà ngày nay, chúng ta phải thực hiện. Công lao của những người làm ra nó là rất đáng kể, và cũng rất đáng kể, phương pháp của họ. Tuy vậy, từ bấy giờ tới nay, trải qua một thời gian sử dụng, đặc biệt từ khi được sử dụng rộng rãi, nó đã có phần biến đổi, và chính đông đảo những người sử dụng nó đã bằng kinh nghiệm và suy nghĩ của mình góp phần tạo nên những biến đổi ấy. Cho nên, ngày nay, “chữ quốc ngữ” cần được cải tiến và đồng thời chuẩn mực hoá cho thực sự trở thành chữ Việt, tức là đúng đắn chữ viết của tiếng Việt hiện đại, của thời đại chúng ta.
Muốn vậy, sự suy nghĩ để tiến hành chuẩn mực hoá chữ viết cần phải toàn diện. Không những có yêu cầu đưa ra giải pháp cụ thể cho các trường hợp mà còn có yêu cầu định ra những nguyên tắc theo những quan điểm chỉ đạo chung.
Quả vậy, quan điểm chưa rõ, thì không thể rõ các nguyên tắc, và giải pháp đưa ra khó có hiệu lực. Chẳng hạn, viết Sếch-xpia, viết axit phải chăng là vừa dễ, vừa đảm bảo tính cách bản ngữ, mà trái lại, viết Shakespeare viết a-xít hay (acid) là vừa khó, vừa xúc phạm tính cách bản ngữ? Đổi chữ cái ghép ph thành f phải chăng chỉ là gây ra một phiền toái vô ích, mặc dù quả là có phiền lúc đầu trong thực tiễn?… Đối với những câu hỏi như vậy, sự nhất trí đạt được là khi đã có sự nhất trí về những nguyên tắc và những quan điểm, quan điểm chính trị về một nhiệm vụ quan trọng, quan điểm khoa học về những hiện tượng ngôn ngữ không thể không phân tích kĩ, về cả những quá trình nhận thức của con người đối với ngôn ngữ, và đối với chữ viết…
Đọc tiếp: Nhất quán và không nhất quán